Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng núi sông liền một dải,
nhân dân hai nước vốn có tình h ữu nghị truyền thống lâu đời, 50 năm trước đây,
ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam, là một nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầu tiên với Việt Nam. Nửa thế
kỷ qua, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước của
Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của mỗi nước,
nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi. Đúng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Mối tình thắm thiết Việt Hoa, vừa là đồng
chí, vừa là anh em". Sau một thời gian dài gián đoạn từ năm 1991, Việt Nam -Trung Quốc chính thức bình th ường hóa quan hệ, mở cửa biên giới cho nhân
dân và các doanh nghiệp hai nước thông thương. Đồng thời với sự phát triển
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực đã nảy sinh nhiều vấn đề
buộc chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá lại một cách đúng đắn hơn trong
tình hình mới.
Chúng tôi đã lựa chọn đề tài này với mục đích xem xét những tiềm năng
có thể khai thác được và vai trò của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đối với nền
kinh tế hai nước, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy triển vọng
của mối quan hệ này. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tiểu luận, đề tài chỉ
giới hạn trong phạm vi nghiên cứu mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam
- Trung Quốc đặc biệt từ sau khi bình th ường hóa quan hệ (1991).
Nội dung của tiểu luận sẽ gồm 3 chương:
Chương 1: Tiềm năng và vai trò của mối quan hệ kinh tế - thương m ại
Việt Nam - Trung Quốc.
Chương 2: Thực trạng quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung
Quốc.
Chương 3: Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh
tế - thương m ại giữa Việt Nam và Trung Quốc.
46 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2300 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Triển vọng và những giải
pháp nhằm thúc đẩy quan
hệ kinh tế - thương mại
giữa Việt Nam và Trung
Quốc
1
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương 1: TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN
HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT
NAM - TRUNG QUỐC
2
I. Tiềm năng của mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam
- Trung Quốc
2
1. Về mặt chính trị 2
2. Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương 3
3. Về việc giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ 3
4. Tiềm năng xuất phát từ hai bên 4
5. Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt
Nam - Trung Quốc
7
6. Các hiệp định và thỏa thuận 8
Chương 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ -
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
14
I. Quan hệ thương mại 14
1. Những đặc điểm trong quan hệ thương mại Việt Nam -
Trung Quốc
14
2. Cơ sở phát triển thương mại Việt Nam - Trung Quốc 18
3. Diễn biến của trao đổi mậu dịch song phong 19
4. Tình hình buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc 21
5. Những kết quả chủ yếu 26
6. Những vấn đề tồn tại
II. Quan hệ đầu tư 30
1. Hạng mục và cơ cấu đầu tư 30
2. Những đặc điểm trong quan hệ đầu tư Việt Nam - Trung Quốc 31
3. Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 31
4. Viện trợ phát triển 35
III. Đánh giá tổng quát 36
Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ KINH TẾ -
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
38
I. Triển vọng 38
II. Những giải pháp 39
Kết luận 42
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng núi sông liền một dải,
nhân dân hai nước vốn có tình hữu nghị truyền thống lâu đời, 50 năm trước đây,
ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt
Nam, là một nước thiết lập quan hệ ngoại giao đầu tiên với Việt Nam. Nửa thế
kỷ qua, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước của
Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của mỗi nước,
nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, nhường cơm sẻ áo, chia ngọt sẻ bùi. Đúng
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Mối tình thắm thiết Việt Hoa, vừa là đồng
chí, vừa là anh em". Sau một thời gian dài gián đoạn từ năm 1991, Việt Nam -
Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ, mở cửa biên giới cho nhân
dân và các doanh nghiệp hai nước thông thương. Đồng thời với sự phát triển
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực đã nảy sinh nhiều vấn đề
buộc chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá lại một cách đúng đắn hơn trong
tình hình mới.
Chúng tôi đã lựa chọn đề tài này với mục đích xem xét những tiềm năng
có thể khai thác được và vai trò của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đối với nền
kinh tế hai nước, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy triển vọng
của mối quan hệ này. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tiểu luận, đề tài chỉ
giới hạn trong phạm vi nghiên cứu mối quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam
- Trung Quốc đặc biệt từ sau khi bình thường hóa quan hệ (1991).
Nội dung của tiểu luận sẽ gồm 3 chương:
Chương 1: Tiềm năng và vai trò của mối quan hệ kinh tế - thương mại
Việt Nam - Trung Quốc.
Chương 2: Thực trạng quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung
Quốc.
Chương 3: Triển vọng và những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh
tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.
3
Chương 1
TIỀM NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỐI QUAN HỆ
KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
I. TIỀM NĂNG CỦA MỐI QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT
NAM - TRUNG QUỐC
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông".
Do điều kiện địa lý tự nhiên đó và một số nhân tố khác nữa, cho nên
ngay từ trước công nguyên giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ
lịch sử và chính trị, giao lưu kinh tế và văn hóa với nhau. Cùng với thời gian,
mối quan hệ trên nhiều lĩnh vực đó không ngừng được duy trì củng cố và phát
triển. Chúng ta có thể tìm được không mấy khó khăn những ghi chép trong sử
cũ của cả Trung Quốc lẫn Việt Nam nói về giao lưu kinh tế và văn hóa giữa hai
nước trong thời kỳ cổ trung đại. Đến thời kỳ cận đại, mối quan hệ kinh tế đó
được mở rộng và phát triển thêm một bước. Đặc biệt, từ khi hai nước bình
thường hóa trở lại tháng 11/1991, mối quan hệ đó ngày một có những biểu hiện
tốt đẹp hơn.
Để duy trì và củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc,
chúng ta phải phân tích để thấy rõ tiềm năng của mối quan hệ này.
1. Về mặt chính trị
Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng nổi bật- đó là: cùng
do Đảng Cộg sản lãnh đạo, đang xây dựng CNXH theo đặc điểm và tình hình
mỗi nước, đều xúc tiến công cuộc cải cách và đổi mới, thực hiện mở cửa với thế
giới. Từ những nét tương đồng đó, hai nước càng có điều kiện trao đổi và học
tập kinh nghiệm lẫn nhau trong xây dựng và phát triển đất nước. Đó là thuận lợi
cơ bản mà hai nước cần phát huy vì lợi ích mỗi dân tộc.
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, các cồng chí lãnh đạo cấp cao thường
xuyên thăm viếng lẫn nhau. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân, Thủ
tướng Lý Bằng, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương chính trị Lý Thụy Hoàn, Ủy
viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Kiều
Thạch, đã lần lượt sang thăm Việt Nam. Các đồng chí ủy viên thường vụ Bộ
Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa 7, khóa 8
cũng đã sang thăm Trung Quốc. Riêng kế từ năm 1998 đến nay, các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam như Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Thủ
tướng Phan Văn Khải, ủy viên thường vụ, thường trực Bộ Chính trị Phan Thế
Duyệt và Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng cũng đã lần lượt sang
thăm Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, đồng chí ủy viên thường vụ Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào và
thủ tướng Chu Dung Cơ đã sang thăm Việt Nam. Các đồng chí lãnh đạo Đảng
và Nhà nước hai nước đã trao đổi ý kiến một cách sâu rộng về các vấn đề trọng
đại quan hệ song phương và đi đến nhiều nhận thức chung, đã phát huy tác
dụng hết sức to lớn đối với việc tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau,
thúc đẩy sự hợp tác hữu nghị cũng như giải quyết các vấn đề tồn tại giữa hai
nước do lịch sử để lại. Đặc biệt tháng 2 năm 1999 tại Bắc Kinh, Tổng bí thư
4
Giang Trạch Dân và Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã tiến hành cuộc gặp mang tính
chất lịch sử, hai bên công bố "Tuyên bố chung", cùng xác định khuôn khổ về
quan hệ hai Đảng, hai nước bằng 16 chữ vàng là láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, đánh dấu quan hệ Trung - Việt
đã bước sang một giai đoạn phát triển mới.
2. Về mối quan hệ giữa các ngành, các địa phương
Thời gian qua, các đoàn đại biểu Đảng, chính quyền, bộ đội, đoàn thể
nhân dân cũng như các tỉnh, thành phố giữa hai nước đi lại nhộn nhịp, lĩnh vực
hợp tác không ngừng được mở rộng. Hàng năm đều có hơn 100 đoàn chính
thức thăm viếng lẫn nhau. Theo thống kê chưa đầy đủ, riêng năm 1999, hai bên
đã trao đổi 146 đoàn chính thức ở cấp bậc khác nhau, trong đó gần 80 đoàn
thuộc cấp từ thứ trưởng trở lên. Bộ trưởng Quốc phòng hai nước và tổng tham
mưu trưởng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và Tổng cục Hậu cần cũng như các
tướng lĩnh lục, hải, không quân của quân đội hai nước đều thăm viếng lẫn nhau.
Sự trao đổi giữa các quân khu vùng biên giới hai nước cũng đã được từng bước
triển khai. Đến nay, bưu chính viễn thông... đã toàn bộ được khai thông. Hai
nước đã ký kết hơn 30 văn kiện hợp tác gồm các lĩnh vực kinh tế thương mại,
khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục, giao thông vận tải, lãnh sự, tư pháp, hải
quan, du lịch... Thủ đô Bắc Kinh đã kết nghĩa với thủ đô Hà Nội. Thành phố
Thượng Hải đã kết nghĩa với thành phố Hồ Chí Minh. Mười mấy tỉnh của Trung
Quốc như: tỉnh Hà Bắc, Giang Tô, Sơn Đông, Tứ Xuyên... và các tỉnh hữu quan
của Việt Nam đã cử đoàn thăm viếng lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm xây dựng
kinh tế và triển khai hợp tác kinh tế với các hình thức khác nhau. Chúng tôi
nghĩa rằng, Trung Quốc và Việt Nam đều đang thực hiện sự chuyển đổi từ kinh
tế kế hoạch sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách
mở cửa của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam có nhiều nét tương đồng và
tương tự về mục tiêu cũng như về cách là việc bước đi. Việc trao đổi kinh
nghiệm giữa hai nước trong nhiều lĩnh vực là điều rất cần thiết và bổ ích cho cả
hai bên, đã và sẽ góp phần quan trọng vào việc bổ sung cho nhau, cùng nhau
phát triển.
3. Về giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ
Nhờ sự quan tâm đích thân và chỉ đạo trực tiếp của các đồng chí lãnh
đạo cấp cao hai nước, đặc biệt là hai đồng chí Tổng Bí thư của hai Đảng, nhờ sự
cố gắng chung và hợp tác chặt chẽ giữa các chuyên gia hai nước trong vòng 8
năm, ngày 30 tháng 12 năm 1999, trước thềm năm mới và thiên niên kỷ mới,
thay mặt nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, đồng chí Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và đồng chí
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã chính thức
Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước. Đây là một sự kiện lớn có ý
nghĩa lịch sử. Sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hai nước cùng nhau xây dựng đường
biên giới vĩnh viễn hòa bình, ổn định và hữu nghị. Thành công của cuộc đàm
phán biên giới trên đất liền đã tăng thêm sự tin cậy giữa hai bên, đồng thời cũng
đã cung cấp những kinh nghiệm bổ ích để hai bên giải quyết các vấn đề tồn tại
khác. Việc hai nước Trung - Việt giải quyết thỏa đáng các tranh chấp về biên
5
giới trên đất liền và ký Hiệp ước cũng góp phần tích cực vào việc củng cố hòa
bình, ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Năm nay, hai nước sẽ tập trung giải quyết vấn đề phân định vịnh Bắc
Bộ. Hai bên cho rằng, với tinh thần "Đại cục làm trọng, nhân nhượng lẫn nhau,
công bằng hợp lý về hiệp thương hữu nghị", tận dụng những kinh nghiệm bổ
ích rút ra từ cuộc đàm phán biên giới trên đất liền, nhất định sẽ hoàn toàn thành
nhiệm vụ mà hai đồng chí Tổng bí thư giao phó, đi đến một giải pháp thỏa đáng
mà hai bên đều có thể chấp nhận. Và quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước
nhất định được phát triển lành mạnh, tốt đẹp hơn.
4. Tiềm năng xuất phát từ hai bên
a. Từ phía Việt Nam
+ Vị trí địa lý
Việt Nam là một dải đất hình cong chữ S, chạy dọc phía đông bán đảo
Đông Dương, vừa gắn liền với lục địa châu Á rộng lớn, vừa thông ra Thái Bình
Dương bao la.
Việt Nam có biên giới đất liền dài 3.730km. Phía Bắc giáp nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa với chiều dài biên giới 1.150km. Phía Tây giáp với
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên chiều dài biên giới 1.650km và với vương
quốc Campuchia 930km. Phía đông, phía nam và phía tây nam giáp biển. Qua
biển đông và vịnh Thái Lan là Cộng hòa Philipin, Cộng hòa Indonexia, Cộng
hòa Singapore, Cộng hòa Brunei và Liên bang Malaysia.
Lãnh thổ toàn vẹn của Việt Nam bao gồm diện tích đất liền 330.991km2
và vùng biển rộng bao la. Vùng lãnh hải Việt Nam rộng 12 hải lý và vùng đặc
quyền kinh tế rộng 200 hải lý với diện tích khoảng 1 triêụ km2.
Hơn nữa, Việt Nam lại nằm trong khu vực Đông Nam Á - vùng đang có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, có sức hấp dẫn lớn nhất trên thế
giới. Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc - một quốc gia có nền kinh tế đối
ngoại rất năng động, phong phú.
Thêm vào đó, chúng ta có chiều dài bờ biển 3.250km mà vận tải đường
biển hiện nay vẫn là một trong những hình thức vận tải chủ yếu nhất của thế
giới, tải trọng khoảng 80% khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của thế
giới. Những nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á cũng đều sử dụng vận
tải biển là chủ yếu. Đây là một lợi thế rất lớn của chúng ta so với Lào và
Campuchia và nhiều nước khác. Ngày nay, quá trình vận tải biển bằng container
có xu hướng phát triển lên càng cao làm cho quá trình vận chuyển hàng hóa
ngoại thương tăng lên nhanh. Trong khi chúng ta có nhiều cảng biển như Sài
Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cửa Lò, Cần Thơ... Đồng thời ven biển, nhất là từ
Phan Thiết trở vào, có nhiều cảng nước sâu đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế để
tàu trở container có thể cập bến an toàn quanh năm. Singapore đã giàu lên, trở
thành "con rồng" châu Á là nhờ có lợi thế vào vị trí cảng biển.
Trên trục đường sắt, đường bộ chúng ta đã xây dựng lâu đời đi sang
châu Á qua Trung Quốc...
+ Tài nguyên thiên nhiên:
6
Cho đến nay Việt Nam chưa đánh giá hết được tiềm năng khoáng sản
của mình trên cả hai mặt: số lượng lại cũng như trữ lượng của từng loại. Căn cứ
vào kết quả điều tra địa chất cũng có thể khẳng định: Ít ra Việt Nam cũng là
quốc gia có tiềm năng khoáng sản cỡ trung bình thế giới.
- Dầu mỏ: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại cho nước ta nhiều
hy vọng nhất, với số lượng khai thác hàng năm gia tăng, mang lại nhiều ngoại tệ,
năm 1999 vừa qua kim ngạch xuất khẩu dầu mỏ khoảng 2 tỷ USD.
Theo ước lượng ban đầu, trữ lượng dầu mỏ Việt Nam có thể đạt 3-4 tỷ
thùng và trữ lượng khí khoảng 50-70 tỷ m3. Dầu mỏ có thể được khai thác ở vịnh
Bắc Bộ, thềm lục địa khu vực Quảng Trị - Thừa Thiên và vùng thềm lục địa phía
nam...
- Tài nguyên khoáng sản đứng thứ hai là than đá với trữ lượng khoảng
36 tỷ tấn và mức khai thác xấp xỉ 10 triệu tấn/năm thì với tài nguyên đó cho
chúng ta khai thác còn lâu mới hết.
- Khoáng sản kim loại: khoáng sản kim loại tương đối đa dạng. Quặng
sắt được phát hiện ở nhiều nơi nhưng chủ yếu tập trung vào 3 khu vực: Tây Bắc,
Đông Bắc và khu bốn cũ. Khu vực Tây Bắc gồm các mỏ dọc sông Hồng trữ
lượng 125 triệu tấn. Khu vực Đông Bắc có 5 mỏ với tổng trữ lượng là 50 triệu
tấn. Khu bốn cũ đã tìm thấy sắt ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, trong
đó quan trọng nhất là mỏ Thạch Khê với trữ lượng dự báo 554 triệu tấn. Trong
số các khoáng sản kim loại màu, kim loại quý và hiếm trước hết phải kể đến
boxit. Việt Nam được đánh giá là một trong 6 quốc gia có trữ lượng bôxit lớn
nhất thế giới. Trữ lượng bôxit ở Tây Nguyên khoảng 6 tỷ tấn. Ngoài ra, chúng ta
còn có hàng chục loại kháng sản kim loại quý như vàng, kẽm, thiếc, đồng, chì,
đám hiếm...
- Về đất đai: diện tích đất cả nước khoảng 330.991km2 trong đó có tới
50% là đất dùng vào nông nghiệp và ngư nghiệp, cộng thêm khí hậu nhiệt đới
mưa nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông sản và lâm sản xuất khẩu
có hiệu quả kinh tế cao như: gạo, cao su, các nông sản nhiệt đới. Giá đất, nhà
hiện nay tại Việt Nam đã tăng 4-10 lần so với 3-4 năm về trước. Tuy nhiên so
với ngoại quốc, 1 căn hộ 4 x 20m có lầu tại San fransico (Hoa Kỳ) khoảng 200.000
USD, tại Nhật Bản khoảng 500-700.000 USD thì còn rất rẻ. Các nhà đầu tư nước
ngoài đến Việt Nam đã tìm được những mặt bằng với tiền thuê đất quá rẻ so với các
nước trên thế giới. Giá hàng nông sản rẻ như gạo xuất khẩu khoảng 180-200
USD/tấn, trong khi Nhật Bản đảm bảo cho nông dân họ là 500USD và Mỹ là 300
USD.
b. Từ phía Trung Quốc
Để đánh giá tiềm năng xuất phát từ phía Trung Quốc, ta hay xem xét sự
phát triển kinh tế của Trung Quốc và vị trí của nó trong nền kinh tế thế giới và
khu vực trong những năm gần đây:
Khi thế giới hiện đại đã bước vào thời kỳ công nghiệp và chuyển sang
thời kỳ hậu công nghiệp. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thực hiện mở cửa
(từ cuối năm 1978), song đã đặt được kỳ tích, mức tăng trưởng kinh tế hàng
năm gần 10%, ngoại thương tăng trên 10% kéo dài liên tiếp hai thập kỷ vừa
7
qua. Đó là những mức tăng trưởng lớn hơn cả nước NIEs trước đây đã từng
làm thế giới kinh ngạc.
Trên cơ sở tiềm năng cho sự phát triển như tiềm lực thị trường to lớn;
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú; nguồn tài nguyên con người dồi dào;
giá đất đai thấp... và sự khởi sắc nhờ chính sách cải cách mở cửa của Trung
Quốc sẽ tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong vài thập kỷ nữa và
cùng với sự tăng trưởng này, địa vị của nó trong nền kinh tế thế giới và khu vực
sẽ có những thay đổi lớn.
Theo một số dự tính từ năm 1991 đến 2010 nếu Trung Quốc có thể duy
trì tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 8,25% thì GDP năm 2010 là 8600 tỷ
nguyên; đến năm 2000 dân Trung Quốc sẽ là 1,3 tỷ người, năm 2010 sẽ là 1,46
tỷ người, do vậy GDP tính teo đầu người sẽ là 6000 nguyên. Dù tính theo
phương pháp PPP (bình quân sức mua) hay theo tỷ giá năm 1990 (1USD = 4,7
nguyên) thì GDP của Trung Quốc lúc đó cũng đứng vào các nước hàng đầu thế
giới chỉ kém Mỹ và Nhật Bản.
Nếu từ 2010 đến 2020, kinh tế Trung Quốc duy trì được tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm 6,8% thì GDP năm 2020 sẽ đạt 16.655,9 tỷ nguyên,
đứng hàng ba nước đứng đầu thế giới.
Hoặc theo cách tính của Kissinger ngoại trưởng Mỹ thì "Trung Quốc sẽ
xuất hiện với tư cách là một siêu cường non trẻ khi thu nhập bình quân đầu
người ở Trung Quốc đạt mức Hàn Quốc hiện nay, tổng sản phẩm quốc dân này
sẽ gấp hai lần Mỹ...".
Cùng với sự tăng trưởng nhanh, kết cấu kinh tế Trung Quốc từ 1996
đến 2010 sẽ có những biến đổi lớn. Nổi bật là sự phát triển nhanh của công
nghiệp, đặc biệt là ngành chế tạo, tiếp đến là các ngành công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng, công nghiệp hóa nặng. Tiến trình công nghiệp hóa, thị trường
hóa mạnh mẽ sẽ dẫn đến sự tăng tiến liên tục tỷ trọng của khu vực dịch vụ.
Điều có thể thấy là Trung Quốc sẽ tiếp tục chính sách mở cửa, mối liên
hệ giữa Trung Quốc với thế giới và khu vực sẽ ngày càng mật thiết. Nhiều dự án
cho rằng tốc độ bình quân hàng năm của ngoại thương sẽ tiếp tục cao ngang tốc
độ tăng GNP, dự kiến đến năm 2010 quy mô xuất khẩu sẽ đạt khoảng 400 tỷ
USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ có những thay đổi lớn, chuyển từ các mặt hàng
giá trị gia tăng thấp sang các mặt hàng giá trị gia tăng cao, hàm lượng khoa học
công nghệ cao là chủ yếu vào năm 2010.
Chính sách quan trọng của Trung Quốc trong thời gian qua là tích cực
thu hút đầu tư nước ngoài. Thời kỳ từ 1980 đến 1994 Trung Quốc đã thu hút
được 200 tỷ USD vốn nước ngoài, trong đó khoảng một nửa là tiền vay và một
nửa là FDI. Dự kiến thời gian tới vẫn tiếp tục thu hút vốn nước ngoài song có sự
điều chỉnh nhất định về hướng đầu tư.
Quy mô của nền kinh tế Trung Quốc trong thế kỷ tới càng hùng vĩ hơn
khi ta xem xét Hồng Kông, Ma Cao trở về Trung Quốc, và quan hệ kinh tế mật
thiết giữa Trung Quốc và Đài Loan trong chiến lược "một quốc gia hai chế độ".
Trên mọi phương diện đều cho thấy hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương đã không thể thiếu sự tham gia của Trung Quốc. Trước hết, dân số
8
Trung Quốc chiếm gần 70% dân số khu vực này, GDP đứng thứ ba, chỉ sau Mỹ,
Nhật Bản, xuất khẩu đứng thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản, Canada. Mặt khác, 70%
ngoại thương Trung Quốc được thực hiện với các nước châu Á - Thái Bình
Dương. Phần lớn các bạn hàng quan trọng của Trung Quốc đều là các nước
châu Á - Thái Bình Dương. Trong gần 100 tỷ USD FDI đổ vào Trung Quốc thời
gian qua từ hơn 60% đến từ các nước châu Á - Thái Bình Dương. Thứ hai, ưu
thế nổi bật của thị trường Trung Quốc với các bạn hàng châu Á -Thái Bình
Dương là khả năng bổ sung cho nhau về các mặt tài nguyên, nhân lực, tiền vốn
kỹ thuật để cùng phát triển. Trong hợp tác, mọi phía đều phát huy được lợi thế
so sánh của mình trong thời gian tương đối dài, do đó đều có thể trở thành bạn
hàng chiến lược của nhau. Ba là, cùng với sự đẩy mạnh thu hút vốn nước ngoài
và sự phát triển nhanh các xí nghiệp "ba nguồn vốn" tỷ trọng xuất khẩu của xí
nghiệp "ba nguồn vốn" trong tổng ngạch xuất khẩu của Trung Quốc đã chiếm
gần một nửa. Điều này cho thấy kinh tế Trung Quốc đã cuốn sâu vào phân công
lao động quốc tế. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế ở các nước châu Á
-Thái Bình Dương đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch nâng
cấp kết cấu kinh tế ở Trung Quốc, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa Trung
Quốc với các nước châu Á - Thái Bình Dương ngày càng chặt chẽ. Nó phản ánh
một hiện thực khách quan là Trung Quốc cần các nước châu Á - Thái Bình
Dương và các nước châu Á - Thái Bình Dương cũng cần Trung Quốc.
5. Lợi thế so sánh trong trao đổi hàn