Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học Duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học Duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người. Nói cách khác, Họ gạt bỏ vai trò của thực tiễn trong xã hội.
Mác-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác-Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
16 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3213 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử.
Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được trong hơn 20 năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Do đó Em chọn đề tài:
“VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA”CHƯƠNG 1: NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
1.1 Lịch sử ra đời.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học Duy vật trước Mác không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học Duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu hoạt động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người. Nói cách khác, Họ gạt bỏ vai trò của thực tiễn trong xã hội.
Mác-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được những hạn chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, Mác-Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
1.2 Cơ sở lý luận.
1.2.1 Phạm trù Thực tiễn. Là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm chủ thế giới. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Chính từ trong qúa trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không có lý luận.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của nó.
1.2.2 Lý luận.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
1.3 Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực tiễn đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà của tính hiện thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong thời gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được càng cao, càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào qúa trình biến đổi hiện thực.
- Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”.
- Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan.
- Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự phát. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
- Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
- Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng thước đo tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
1.4 Những sai lầm nếu không ứng dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong thực tiễn.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không được xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng.
- Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của nó. Và lý luận trở thành lý luận suông.
- Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm quý báu đó.Song chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại khái, phiến diện thiếu tính lô gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy dễ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghiã.
- Nếu tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừu tượng không chú ý đến những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
- Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". Lê nin cho rằng lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo, lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tế sinh động..., do vậy phải cụ thể hóa Chủ nghĩa Mác- Lê nin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA.
2.1 Thực trạng con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Nước ta đi lên CNXH xuất phát từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, từ một xã hội tiền tư bản, có những yếu tố giai đoạn đầu tư bản chủ nghĩa (TBCN) với nền sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ TBCN. Ðặc điểm xuất phát này quy định cả nội dung, hình thức, bước đi và thời gian của con đường đi lên CNXH ở nước ta. Khi nói về đặc điểm xây dựng CNXH ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Ðặc điểm to nhất... là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển TBCN" . Khái niệm "tiến thẳng" ở đây không có nghĩa là "quá độ trực tiếp" lên CNXH mà chỉ có nghĩa là "không phải kinh qua chế độ TBCN" hay "bỏ qua chế độ TBCN". Mà "bỏ qua chế độ TBCN" tức là bỏ qua việc xác lập vai trò thống trị của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng TBCN nhưng phải biết kế thừa và phát huy những nhân tố tích cực được tạo ra trong lòng CNTB để xây dựng CNXH.
Do điểm xuất phát thấp về kinh tế - xã hội nên chúng ta phải thực hiện kiểu "quá độ gián tiếp" từ xã hội tiền tư bản, lên CNXH với nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ, nhiều hình thức tổ chức kinh tế - xã hội có tính chất quá độ, đan xen để thực hiện bước chuyển tiếp lên CNXH. Ðây cũng là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường. Nếu nhân dân Trung Quốc đang xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc mà giai đoạn đầu dài khoảng 100 năm, thì chúng ta mới hoàn thành giai đoạn tạo tiền đề cho công nghiệp hóa và đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Sau đó còn bao nhiêu giai đoạn nữa, là những giai đoạn gì và độ dài của thời kỳ quá độ là bao nhiêu năm thì cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định rõ được. Ðể xác định được chắc chắn chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
2.2 Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của nước ta trong những năm qua.
Mục tiêu, lý tưởng của Ðảng ta là xây dựng thành công CNXH và CNCS, đó cũng là mục tiêu của con đường XHCN ở nước ta. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH, có thời kỳ chúng ta đã mắc phải sai lầm chủ quan duy ý chí và giáo điều trong việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và mô hình CNXH Xô-viết. Trong những năm đổi mới, Ðảng ta đã có sự nhận thức đúng hơn thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít, đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên một loạt các vấn đề, vận dụng phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở nước ta đã trải qua một quá trình lâu dài và không đơn giản. Trong quá trình đó Ðảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, xuất phát từ thực tiễn đất nước, có nhiều tìm tòi, sáng tạo trong nhận thức lý luận, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Ðại hội X của Ðảng trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới đã có một bước tiến mới quan trọng trong nhận thức về con đường đi lên CNXH của nước ta.
2.2.1 Kiên định con đường đã chọn
Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy rằng con đường kết hợp độc lập dân tộc với CNXH là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam.
Trong những năm đổi mới nhờ kiên định con đường XHCN, chúng ta vừa giữ vững thành quả cách mạng và mục tiêu cách mạng, vừa kiên quyết đổi mới, dám từ bỏ những phương pháp và mô hình sai lầm, sáng tạo phương pháp mới, cách làm mới, mô hình mới để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Chúng ta vừa giữ vững ổn định chính trị - xã hội, vừa phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ tương đối cao; vừa giữ vững nền độc lập dân tộc vừa chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, sự kiên định con đường XHCN đòi hỏi phải dám đổi mới và biết đổi mới; đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ở đây có mối quan hệ biện chứng giữa kiên định và đổi mới: muốn kiên định con đường XHCN, phải đổi mới được nhận thức và đưa được nhận thức đó vào thực tiễn, tạo ra được những thành quả của CNXH trong cuộc sống; trái lại, có kiên định con đường XHCN thì mới đổi mới đúng hướng, mới bảo đảm độc lập dân tộc và CNXH cho đất nước. Chính trong quá trình đổi mới, trên cơ sở kiên định con đường XHCN, Ðảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về CNXH ngày càng phù hợp hơn, từng bước khắc phục những quan niệm giáo điều, đơn giản, ấu trĩ, duy ý chí về CNXH. Những nhận thức mới đó về CNXH được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh năm 1991 và đã được bổ sung, phát triển về sau này, nhất là qua tổng kết lý luận - thực tiễn hơn 20 năm đổi mới. Tất nhiên sự vận động, phát triển của thực tiễn và nhận thức đòi hỏi Ðảng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển hơn nữa nhận thức đó.
Từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, chúng ta đã nhận thức lại ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về mục tiêu, bản chất, đặc trưng của CNXH. Cương lĩnh năm 1991 đã khái quát sáu đặc trưng của CNXH. Ðến Ðại hội X, Báo cáo chính trị đã bổ sung một số điểm mới trong mô hình CNXH ở nước ta: "Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Ðây chính là đặc trưng tổng quát nhất của mô hình xã hội XHCN mà chúng ta đang xây dựng. Cụ thể hóa đặc trưng tổng quát đó, Văn kiện Ðại hội X đã nêu lên những đặc trưng cụ thể, trong đó có những đặc trưng mới chẳng hạn như "Có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản" .
2.2.2 Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của mình.
Mở rộng giao lưu và tiếp thu thành tựu của các ngành khoa học khác là một yêu cầu của phát triển tư tưởng nền tảng. Những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học-công nghệ vừa làm rõ thêm giá trị chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa đặt ra những vấn đề mới cần được lý giải để phát triển lý luận, tư tưởng. Cuộc đấu tranh chống các loại tư tưởng đối lập hiện đại đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận phải đứng ở thạch động nên phải vừa hiểu đầy đủ những luận điệu của kẻ thù vừa phải tự nâng cao trình độ, mài sắc luận điểm mới có thể chiến thắng. Trình độ dân trí ngày càng cao, việc tiếp nhận thông tin hàng ngày từ nhiều nguồn và đa đảng, Đảng phải đủ sức hướng dẫn nhận thức. Cách mạng XHCN diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến tri thức của tất cả các ngành khoa học đòi hỏi Đảng phải tiếp thu có chọn lọc để làm căn cứ, cơ sở cho việc xác định đường lối, chủ trương. Không làm giàu tri thức bằng tiếp thu những thành tựu khoa học thì khó giữ vững nền tảng tư tưởng như đã tuyên bố. Nhưng việc làm giàu tri thức ấy chỉ có thể vững chắc khi dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để chọn lọc. Vì vậy, nền tảng tư tưởng không phải là sự đông cứng, đơn điệu mà phải có sức sống sinh động bằng việc cởi mở để tiếp nhận những thức tiên tiến của khoa học. Các khó của vấn đề ở đây là không rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội hay chủ nghĩa đa nguyên, tư tưởng thực dụng. Đổi mới phát triển càng nhanh đòi hỏi sự nhạy bén và tỉnh táo càng cao trước mọi xu hướng tư tưởng. Mỗi bước đi lên của đổi mới đều tăng thêm lòng tin và niềm phấn khởi, nhưng cũng kèm theo những băn khoăn trước những vấn đề mới đang được đặt ra trong thực tiễn.
2.2.3 Khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh kinh nghiệm, giáo điều.
- Trong những năm qua nước ta đã khắc phục