TÓM TẮT
Về mặt xã hội, các tiểu thuyết phong tục đã nói lên được một thực tế quan trọng của
thời đại, rằng đây là thời đại “con người ý thức được sự có mặt của mình trên thế giới với
tư cách là một tộc loại cá thể” hết sức sâu sắc. Và về mặt văn học, tiểu thuyết phong tục,
cũng có thể hiểu rộng ra là tiểu thuyết hiện thực thời Khai sáng, đã “mở ra khả năng
nghiên cứu không chỉ sự phức tạp của thế giới bên ngoài mà cả những phức tạp của cá
nhân, sự phong phú của nó, những xung đột, năng lực của nó” [Souchkov, Số phận lịch sử
của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr.43]. Tiểu thuyết phong tục đã góp phần
vào việc định hình một tư duy tiểu thuyết mới: thế sự hóa đối tượng thẩm mĩ và cách thức
biểu hiện. Ý nghĩa tiền đề trực tiếp cho tiểu thuyết hiện thực cổ điển thế kỉ XIX của tiểu
thuyết phong tục thế kỉ XVIII một phần quan trọng chính là ở điểm đó.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 205 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu thuyết phong tục – thành tựu quan trọng của văn hóa và văn học thời khai sáng ở phương Tây thế kỉ XVIII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014
6
TIỂU THUYẾT PHONG TỤC – THÀNH TỰU QUAN TRỌNG
CỦA VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC THỜI KHAI SÁNG
Ở PHƯƠNG TÂY THẾ KỈ XVIII
NGUYỄN HỮU HIẾU(*)
TÓM TẮT
Về mặt xã hội, các tiểu thuyết phong tục đã nói lên được một thực tế quan trọng của
thời đại, rằng đây là thời đại “con người ý thức được sự có mặt của mình trên thế giới với
tư cách là một tộc loại cá thể” hết sức sâu sắc. Và về mặt văn học, tiểu thuyết phong tục,
cũng có thể hiểu rộng ra là tiểu thuyết hiện thực thời Khai sáng, đã “mở ra khả năng
nghiên cứu không chỉ sự phức tạp của thế giới bên ngoài mà cả những phức tạp của cá
nhân, sự phong phú của nó, những xung đột, năng lực của nó” [Souchkov, Số phận lịch sử
của chủ nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr.43]. Tiểu thuyết phong tục đã góp phần
vào việc định hình một tư duy tiểu thuyết mới: thế sự hóa đối tượng thẩm mĩ và cách thức
biểu hiện. Ý nghĩa tiền đề trực tiếp cho tiểu thuyết hiện thực cổ điển thế kỉ XIX của tiểu
thuyết phong tục thế kỉ XVIII một phần quan trọng chính là ở điểm đó.
Từ khóa: tiểu thuyết phong tục, thời Khai sáng, đối tượng thẩm mĩ, tiểu thuyết hiện
thực cổ điển
ABSTRACT
In social terms, custom novels depict one important fact of the era. This is the era
when "people are profoundly aware of their presence in the world as an individual nation.
And in terms of literature, custom novels which can be interpreted broadly realistic fictions
in the Enlightenment “has opened up the possibility to study not only the complexity of the
outside world, but also the complexity of individual, its variety, conflicts and power”
[Souchkov, The historical fate of realism, New Work Publishing House, p.43]. Custom
novels have contributed to the shaping of a new novel thinking: realizing the aesthetic
object and expression manner. The direct premise meaning for classic realistic fiction in
the nineteenth century is significantly the custom novels of the eighteenth century.
Keywords: custom novel, the Enlightenment, aesthetic objects, classic realistic novel
(*)Thời đại Khai sáng chưa phải là thời đỉnh
cao của tiểu thuyết phong tục, mà thời kì
đỉnh cao của tiểu thuyết này sẽ chờ đợi sang
thế kỉ sau, gắn liền với tên tuổi những tác giả
như Balzac, Stendhal, Charles Dickens,
Thackeray, William Dean Howells... của thế
kỉ XIX. Lí do dễ hiểu là: trong khuôn khổ
(*)PGS.TS, Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG
TP.HCM
văn hóa của thời đại tranh đấu về chính trị và
triết học của thế kỉ XVIII, hầu hết các nhà
văn bị cuốn vào không khí chung của thời
đại, và họ muốn bằng những quan niệm phần
nhiều mang tính trực tiếp, có tính thời sự, dễ
dàng tác động tới nhận thức của đại đa số
người đọc thuộc giới tư sản và các tầng lớp
trung lưu và bình dân. Hơn nữa, thế kỉ XVIII
tuy đã có phong trào Bách khoa toàn thư (ở
Pháp) với việc biên soạn và phổ biến nhiều
7
tri thức khoa học cả tự nhiên và xã hội theo
tinh thần có lợi cho tầng lớp tư sản và trào
lưu tư sản hóa nhưng cũng chưa có được
những thành tựu như trong thế kỉ XIX – thế
kỉ người phương Tây đứng trước ngưỡng
cửa thời đại khoa học, với những nghiên cứu
sâu sắc về đời sống, về sự tranh đấu giữa
những tầng lớp khác nhau về quyền lợi, cũng
như về vai trò của hoàn cảnh đối với con
người (các học thuyết của Lamark, Saint
Hilàire, Michelet, Darwin), những vấn đề
có thể gợi ý niệm về bức tranh toàn cảnh và
mối quan hệ giữa tâm lí, tính cách của con
người trong khung cảnh nó sống và hoạt
động. Tuy vậy, dù không nhiều, nhưng trong
thế kỉ XVIII cũng đã xuất hiện một số nhà
văn có những tiểu thuyết mà ở đó thấp
thoáng dáng dấp của hình thức tiểu thuyết sẽ
phát triển mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỉ
XIX.
Một điều rất đặc biệt là trong thế kỉ
XVIII loại tiểu thuyết này hầu như vắng
bóng ở Pháp, Đức, Mỹ, nói đúng hơn,ở
những nền văn học ấy tính chất của tiểu
thuyết phong tục hết sức mờ nhạt với vài
biểu hiện nhỏ (như tiểu thuyết “Nữ tu sĩ”
của Denis Diderot khi nói về đời sống
trong chốn tu viện, hay tiểu thuyết “Manon
Lescaut” của A. Prévost ít nhiều đề cập đời
sống giới giàu có mặt kì triều đại Louis
XIV), mà chủ yếu chỉ xuất hiện ở nước
Anh, với một số tác giả tiêu biểu như
Richardson, Smollett, đặc biệt là Henry
Fielding. Vì sao lại có hiện tượng đó?
Trong thế kỉ XVIII, xét về cơ sở hiện thực,
mặc dù nước Anh vẫn nằm trong trào lưu
tư sản hóa của châu Âu nhưng rõ ràng có
những khác biệt rất lớn so với Pháp, Mỹ
hay nước Đức. Khác biệt cơ bản ở đây là:
trong khi người Đức, người Mỹ, và đặc
biệt người Pháp bận tâm tập trung vào hoạt
động tranh đấu để chống sự trì trệ lạc hậu
và phân tán về chính trị (như nước Đức), làm
cách mạng giải phóng dân tộc (như Mỹ), làm
cách mạng nhân quyền và dân quyền (như
Pháp), thì người Anh do chính thể quân chủ
lập hiến đã có những cải cách về thể chế
(dưới vua có Quốc hội, có nội các, có Thủ
tướng cùng Hội đồng bộ trưởng điều hành
đất nước) nên chủ yếu họ ra sức cho cách
mạng về kinh tế. Kể từ sau “cách mạng vẻ
vang” 1688, dù trong xã hội vẫn có những sự
mẫu thuẫn, tranh giành quyền lợi giữa các
phe phái (giữa đảng Whig và Tory), các
dòng tộc hay những tranh luận giữa những
người có quan điểm khác nhau về tôn giáo
nhưng nước Anh không có những cơn lốc
chính trị dữ dội mà chủ yếu người ta tập
trung cho những sự phát triển về kĩ thuật
hiện đại (nhất là sự cơ khí hóa ngành dệt may
truyền thống), về nông nghiệp, mở mang và
duy trì thế lực ở các thuộc địa rộng lớn ở Bắc
Mỹ và Ấn Độ Về kinh tế và chính trị xã
hội là vậy, còn về đời sống văn hóa tinh thần
trong thế kỉ XVIII ở Anh cũng có sự khác
biệt. Ví dụ: trong khi tiếp cận những học
thuyết của những nhà tư tưởng lớn của thời
đại (như F.Bacon, Descartes, John Locke,
Montesquieu) người Pháp thường có xu
hướng khai thác những khía cạnh có tính
chất đối lập quyết liệt với chủ nghĩa giáo
điều và sự ngưng trệ phong kiến để tạo nên
những cuộc tranh luận về triết học, khoa học,
tôn giáo khá gay gắt và có tính chất “đập
phá” thì ở Anh ngược lại, người ta ra sức phổ
biến những quan điểm mới ấy theo hướng
làm sao có lợi cho việc điều chỉnh nhận thức
của con người với mục đích hướng đến sự
hợp lí, khách quan và một sự bình ổn về xã
hội và đạo đức. Những quan điểm mới về
con đường truy tầm chân lí của Francis
Bacon (1561 – 1626), một triết gia, một
nhà văn và chính khách trong thế kỉ XVI –
XVII, “ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy
8
vật Anh và tất cả những khoa học thự
nghiệm hiện đại” (thuyết của Bacon đã
sớm nêu nguyên tắc thực nghiệm theo ba
bước quan sát, nêu giả thuyết và kiểm
chứng bằng thực tiễn, hoàn toàn không xa
với nguyên tắc của khoa học hiện đại), hay
tư tưởng đề cao con ngưởi tự nhiên và
thuyết duy cảm của John Locke, David
Hume trở thành kinh nghiệm quí báu và có
những tác động quan trọng đối với việc
kiến tạo đời sống tinh thần Anh trong thế
kỉ XVIII, mà văn học là một phần quan
trọng trong đó. Những đặc điểm có tính
lịch sử trên nhiều phương diện của nước
Anh ấy có thể được xem là cơ sở quan
trọng dẫn đến sự xuất hiện sớm ở nền văn
học này thể loại tiểu thuyết phong tục, một
hình thức tiểu thuyết ít hoặc không trực
tiếp đề cập đến những vấn đề chính trị xã
hội rộng lớn, mà có xu hướng quan tâm
những điều bình dị trong đời sống thường
nhật, đời sống riêng tư và phong tục đạo
đức, cũng như chú trọng việc khai thác và
thể hiện tâm lí, tính cách của các nhân vật.
Samuel Richardson (1689 – 1761) là
một người sớm bộc lộ thiên hướng quan sát
và viết về những hoàn cảnh éo le, những
“trạng huống mang tính xã hội phức tạp rõ
rệt”, đặc biệt ông hay đề cập tới những vấn
đề liên quan tới đạo đức xã hội thông
thường, như đạo đức trong tình yêu và hôn
nhân. S. Richardson viết không nhiều, tên
tuổi ông chủ yếu gắn với ba bộ tiểu thuyết:
“Pamela hay đức hạnh được đền bù”
(Pamela or Virtue rewarded) gồm 4 tập được
xuất bản trong bảy năm, từ 1740 đến 1747;
“Clarissa Harlowe hay câu chuyện về một
người phụ nữ trẻ” (Clarissa Harlowe or The
history of a young lady) xuất bản năm 1748,
và “Charles Grandison” (1754). Trong số
những tác phẩm ấy, tiểu thuyết “Pamela hay
đức hạnh được đền bù” có thể được xem là
một trong những tiểu thuyết phong tục tiêu
biểu trong văn học Anh thế kỉ XVIII.
Pamela là nhân vật chính. Đó là một cô
gái xuất thân gia đình nghèo và trở thành
con nuôi trong một gia đình quí phái. Dù
được ở trong một gia đình giàu có nhưng
thân phận cô gái cũng không khác gì kiếp
tôi đòi. Con trai của bà chủ, anh chàng
Belfort, vốn là một chàng thanh niên lêu
lổng, phóng đãng, đã tìm mọi cách, lúc thì
dụ dỗ, lúc dùng tiền bạc, lúc lại cậy thế ông
chủ để đe dọa, cưỡng ép hòng chiếm đoạt
tình cảm của cô. Tuy vậy, với đức tính hồn
nhiên và sự hiền dịu bẩm sinh không bao
giờ biết đến thù hằn, cô dần cảm hóa được
bá tước Belford, làm cho anh ta từ bỏ tính
kiêu ngạo tự phụ của giới thượng lưu và
thiên kiến đẳng cấp để cuối cùng hai người
có một kết thúc có hậu với một hạnh phúc
viên mãn.
Thực ra, với tiểu thuyết này, ta cũng có
thể có những định danh khác nhau: tiểu
thuyết tâm lí, tiểu thuyết thư tín, tiểu thuyết
thuyết giáo đạo lí Mỗi cách định danh
như thế đều có cơ sở từ chính đặc tính nội
dung và hình thức tiểu thuyết, hoặc từ
thông điệp mà Richardson muốn gửi gắm
tới người đọc cùng thời. Tuy nhiên, nếu xét
trên nhiều khía cạnh, việc định danh tiểu
thuyết phong tục cho tác phẩm này có lẽ
phù hợp hơn.
Tác phẩm là một tập hợp nhiều lá thư
kể chuyện về cô gái nghèo Pamela. Cốt
truyện tuy không có gì phức tạp, rối rắm,
nhưng tác phẩm nói lên nhiều điều liên
quan đến sự tiến hóa của thể loại văn học
cũng như sự tiến hóa của văn học Anh.
Điều quan trọng ở đây là, đằng sau hình
thức thư từ ấy là môi trường xã hội, là số
phận của một con người bé nhỏ bị lép vế
và bị coi thường trong cái nhìn của giới
nhà giàu. Những định kiến về vị trí sang
9
hèn, giàu nghèo, mà ở đây là thái độ coi
thường của Belford đối với nguồn gốc xuất
thân của Pamela đã làm cho tác phẩm trở
thành một câu chuyện kể về vấn đề có tính
hiện thực và xã hội sâu sắc. Tuy thông điệp
đạo đức của tiểu thuyết cũng khá rõ khi
nhà văn muốn nhấn mạnh những phẩm
chất “trung thực, lòng trung thành, sự siêng
năng (phải) là các đức tính trụ cột của xã
hội”, nhưng cái thông điệp đạo đức ấy
cùng với kết thúc có hậu của tiểu thuyết
vẫn không làm mờ đi ý nghĩa quan trọng
của tác phẩm: đó là một câu chuyện về đời
sống của người bình dân, những người vốn
chỉ được đóng vai phụ trên sân khấu đời
sống, với tất cả tâm tư và cảm xúc đời
thường của họ.
Tiểu thuyết phong tục không chỉ là vấn
đề miêu tả số phận hay tái hiện hoàn cảnh
sinh hoạt có tính chất thường nhật của các
nhân vật, mà đi liền với những điều ấy nhà
văn còn đi sâu khai thác tâm lí của họ trong
mối tương quan với hoàn cảnh mà họ là
nạn nhân hoặc là sản phẩm của nó. Tâm lí
đó là thứ tâm lí có tính chất riêng tư, đời
thường, không cường điệu. Chính thứ tâm
lí rất “cận nhân tình” của Pamela đã làm
cho hình tượng thêm tính thuyết phục. Mối
quan hệ giữa cô và Belford trước khi đi
tới kết thúc có hậu là một thứ tâm lí đầy
phức tạp, ở đó cô phải vừa dịu dàng, thậm
chí có vẻ là phục tùng trong quan hệ giữa
người ở và ông chủ, nhưng cũng vừa phải
cương quyết để bảo vệ danh dự của mình.
Hơn thế nữa, một mặt Pamela biết Belford
là người đưa lại cho cô rất nhiều đau khổ
và tủi nhục và bắt cô phải chịu đựng,
nhưng mặt khác trái tim non trẻ của cô lại
không chống lại được những rung động
trước anh ta. Tính chân thật, chiều sâu của
những uẩn khúc tâm lí và bóng dáng môi
trường xã hội gắn liền với số phận nhân vật
đã khiến tác phẩm được xem là “tiểu thuyết
tiếng Anh hiện đại đầu tiên”, và tác giả của
nó – Samuel Richardson là người “đã có
công đóng góp vào việc tạo ra thể loại tiểu
thuyết hiện đại Anh” [Hữu Ngọc chủ biên,
Từ điển tác gia văn học và sân khấu nước
ngoài, Nxb Văn hóa, 1983, tr. 379].
Henry Fielding (1707 – 1754) được
coi là người đưa tiểu thuyết phong tục thế
kỉ XVIII đạt tới đỉnh cao nhất của nó, đồng
thời là “tiểu thuyết gia vĩ đại nhất” trong
thời đại Khai sáng. Thậm chí Walter Scott,
một nhà văn bậc thầy của thể loại tiểu
thuyết lịch sử Anh đầu thế kỉ XIX không
chỉ rất ngưỡng mộ Henry Fielding mà còn
coi ông là “cha đẻ của tiểu thuyết Anh”.
H. Fielding viết khá nhiều, cả kịch trào
phúng chính trị (trên 20 vở) và tiểu thuyết,
nhưng thường thì người ta ít khi nhắc đến
ông với tư cách nhà viết kịch mà chủ yếu
nhắc đến ông với tư cách tiểu thuyết gia
quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết Anh và
lịch sử tiểu thuyết châu Âu nói chung.
Ông là tác giả của nhiều tiểu thuyết, như
“Joseph Andrews” (1742) “Cuộc đời của
ông Jonathan Wild vĩ đại” (Life of Mr.
Jonathan Wild The Great, 1743), “Hành
trình tới Lisbon” (Voyage to Lisbon, 1751)
“Amilia” (1752) trong đó mỗi tiểu
thuyết được viết theo một lối riêng, cho
thấy bút pháp đa dạng và quan niệm tiểu
thuyết khá rõ ràng ở nhà văn này.
Tiểu thuyết đỉnh cao và gắn liền với
tên tuổi Henry Fielding là “Câu chuyện về
Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi” (The history
of Tom Jones, a foundling, 1749). Đó là
câu chuyện kể về cuộc đời và số phận của
một đứa trẻ vô thừa nhận sống trong gia
đình một điền chủ giàu có và tốt bụng, ông
Allworthy. Những tưởng cuộc sống sẽ
bằng phẳng và tràn đầy hạnh phúc, nhưng
khi lớn lên Tom Jones lại luôn phải đối
10
diện với sự toan tính, hiềm tị của Blifil, một
người cháu ruột của điền chủ. Với những
rắc rối, phức tạp chung quanh quan hệ tình
cảm của hai chàng trai với cô gái trẻ đẹp
Sophie và chuyện dành quyền thừa kế trong
gia đình của Blifil, anh ta đã dùng những lời
nói xấu và dèm pha đầy ác ý, buộc ông
Allworthy phải đuổi Tom Jones ra khỏi nhà.
Tuy nhiên, sau những tháng ngày gian truân
vất vả, bí mật về cuộc đời của anh cũng
được hé lộ: Tom chính là con hoang của
người em gái của ông Allworthy, và là anh
cùng mẹ khác cha với Blifil. Khi bí mật
được sáng tỏ, những tươi sáng của cuộc đời
đã đến với Tom Jones, anh trở thành người
thừa kế và có lại tình yêu với cô gái trẻ tốt
bụng Sophie.
Xét về khía cạnh thể loại, cuốn tiểu
thuyết hứa hẹn có nhiều điều rất mới mẻ,
không xa với tiểu thuyết hiện thực, và
tất nhiên là đã có những điểm vượt ra khỏi
những đặc điểm thường thấy ở tiểu thuyết
nói riêng và văn xuôi nói chung của thời
đại Khai sáng.
So với các hình thức tiểu thuyết khác
cùng thời (tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết
tình cảm, tiểu thuyết triết học), tiểu
thuyết “Câu chuyện về Tom Jones, đứa trẻ
bị bỏ rơi” là một tác phẩm khá dày đặc về
tình tiết, sự kiện. Tuy cốt truyện không quá
rối rắm phức tạp, nhưng sự diễn biến của
cốt truyện cùng với những tình tiết và sự
kiện đi liền với nó luôn gợi ở người đọc
những hình dung về đời sống mà ở đó có
những cảnh đời, những phong tục tập quán,
những bức tranh khung cảnh xã hội, cũng
như bức tranh sinh hoạt trong những gia
đình nông thôn nước Anh thế kỉ XVIII. Cái
cách nhà văn miêu tả khung cảnh gia đình
Allworthy cũng như số phận các nhân vật
trong đó rất gần với cách miêu tả của các
nhà văn hiện thực Anh đầu thế kỉ XIX, như
Charles Dickens (1812 – 1870) với tiểu
thuyết “Oliver Twist” và “David
Corpperfield”, hay Charlotte Brontee
(1816 – 1855) với tiểu thuyết “Jane
Eyre” Nếu xét trong khung thẩm mĩ
hiện thực chủ nghĩa thế kỉ XVIII, khi mà
hoàn cảnh chưa trở thành một khách thể
mĩ học và các nhà văn chưa có kinh
nghiệm “tái hiện nghệ thuật đối với môi
trường” cũng như “chưa truyền được cảm
hứng cho thế giới chung quanh con người”
[Souchkov, Số phận lịch sử của chủ nghĩa
hiện thực, tr.81] thì những gì Henry
Fielding đã làm được trong tiểu thuyết này
đã là một ngoại lệ, vượt ra ngoài thói quen
phổ biến (chủ yếu kể lại người, sự việc, sự
vật) của tiểu thuyết thế kỉ XVIII.
Cùng được xem là những tiểu thuyết
phong tục, nhưng nếu so với tiểu thuyết
“Pamela hay đức hạnh được đền bù” của
Samuel Richardson thì tiểu thuyết “Câu
chuyện về Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”
của Henry Fielding cũng có nhiều thay đổi.
Sự khác biệt ở đây không chỉ dừng ở hình
thức trần thuật, một bên là hình thức thư
tín (số phận, tâm trạng thể hiện qua những
bức thư) và một bên là kể và tả (tức là dùng
lời văn trần thuật), mà điều quan trọng ở
chỗ sự lựa chọn những hình thức khác
nhau đó có liên quan tới dụng ý của nhà
văn, một bên chú trọng phương diện tình
cảm (cũng có ý kiến xếp tác phẩm của
Richardson vào thể loại tiểu thuyết tình
cảm), còn một bên muốn thể hiện một thứ
hoàn cảnh “không thêm bớt” và hình ảnh
“con người tự nhiên” theo một cách tự
nhiên nhất. Chính ngôn ngữ văn xuôi dạng
kể tả của tác phẩm đã góp phần làm tăng
chất đời thường của nội dung trần thuật
một cách đáng kể.
Văn học thế kỉ XVIII nhìn chung bị
điều kiện hóa bởi nhu cầu cổ võ cho tinh
11
thần mới (tinh thần tư sản) và gắn với mục
đích xây dựng tâm hồn và trí tuệ con
người, chấn chỉnh đạo đức cá nhân và xã
hội.... Trong điều kiện như thế, dù muốn
hay không thì tiểu thuyết của Fielding cũng
không hoàn toàn thoát ra khỏi bầu khí
quyển văn hóa chung của thời đại mình.
Dấu vết của tính chất bị điều kiện hóa ấy
chúng ta có thể tìm thấy trong thái độ thiện
cảm của tác giả đối với những nhân vật
mang vẻ đẹp tinh thần và thể chất như
Allworthy, Tom Jones, Sophie Western,
tất cả họ là những con người đáng mến, có
tấm lòng trong sáng, thánh thiện (kể cả ông
Allworthy, dù ông đã đuổi Tom Jones ra
khỏi nhà). Giống với tiểu thuyết của
Richardson, để khẳng định giá trị đạo đức,
H. Fielding cũng vận dụng khung truyện
kể có kết thúc có hậu (happy ending) và
motif quen thuộc lưu lạc – đoàn viên của
nhân vật trung tâm Tuy vậy, so với tiểu
thuyết “Pamela”, vấn đề đức hạnh và lí
tưởng về con người đức hạnh ở “Truyện về
Tom Jones, đứa trẻ bị bỏ rơi”đã được “cất
dấu” rất khéo sau những miêu tả đậm chất
văn xuôi về một hiện thực đời sống đa diện
và một đời sống tâm lí nhiều chiều của các
nhân vật. Tác giả không bị sa đà vào mục
đích giáo huấn đạo đức cũng như lí tưởng
hóa nhân vật tốt bụng một cách lộ liễu.
Ông tỏ ra có thiện cảm với những con
người tốt bụng, nhưng mặt khác, trong khi
nói về những đức tính tốt thì đồng thời ông
cũng đề cập đến những tính xấu như thói
tham lam, ích kỉ, toan tính của người đời.
Cách thể hiện như thế của H. Fielding rõ
ràng có cơ sở từ sâu xa quan niệm về “con
người tự nhiên” của nhà văn, ở đó “đức
hạnh là do bản tính tự nhiên – chúng tạo
thành bản chất nội tại của nó (nhân vật),
chúng không được đưa từ bên ngoài vào
tâm hồn (mà) chẳng qua nó biểu hiện
những đặc tính của bản tính con người, bản
tính như thế nào thì biểu hiện như vậy”
[B.Souchkov, Số phận lịch sử của chủ
nghĩa hiện thực, Nxb Tác phẩm mới, tr. 80].
Nhìn lại quá trình tiến hóa của văn học
hiện thực, nói chính xác ra là văn học mang
tính hiện thực (hay có xu hướng hiện thực)
trong lịch sử văn học phương Tây từ thời
đại Phục hưng cho đến thế kỉ XVIII và thời
đại Khai sáng, sự xuất hiện của tiểu thuyết
phong tục dù xét về qui mô vẫn còn mang
tính cục bộ (chủ yếu là văn học Anh) và
cũng chưa có nhiều nhà văn đi theo thể loại
này, nhưng không thể không khẳng định
rằng đó là một bước phát triển đáng kể của
tiểu thuyết và tư duy tiểu thuyết. Vì vậy, để
đánh giá một cách thỏa đáng vị trí của thể
loại tiểu thuyết phong tục thiết nghĩ không
thể không đặt nó trong tiến trình lịch sử
văn học phương Tây nói chung, lịch sử văn
xuôi nói riêng.
Ngay trước thời đại Phục hưng, từ thế
kỉ thứ V, cụ thể từ năm 476 (năm đánh dấu
sự sụp đổ của đế quốc Tây La Mã) đến
năm 1453 (năm đánh dấu sự sụp đổ của