Tóm tắt. Lời mời là lời nói thể hiện thái độ tôn kính, trân trọng, lịch sự, thân thiện
và hiếu khách của người mời; đồng thời xuất phát từ phương diện lợi ích có được
thì lời mời là hành động mang lại nhiều lợi ích cho người được mời. Căn cứ vào
đích hướng tới của phát ngôn, lời mời trong tiếng Việt được chia làm hai loại: Lời
mời đích thực và lời mời không đích thực. Từng kiểu dạng lời mời theo cách nhìn
của người viết lại được chia thành các tiểu loại khác nhau. Đây chính là nét riêng
biệt của lời mời tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu lời mời trong giao tiếp tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2013, Vol. 58, No. 6, pp. 66-72
TÌM HIỂU LỜI MỜI TRONG GIAO TIẾP TIẾNG VIỆT
Vũ Tiến Dũng
Khoa Tiểu học - Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc
Tóm tắt. Lời mời là lời nói thể hiện thái độ tôn kính, trân trọng, lịch sự, thân thiện
và hiếu khách của người mời; đồng thời xuất phát từ phương diện lợi ích có được
thì lời mời là hành động mang lại nhiều lợi ích cho người được mời. Căn cứ vào
đích hướng tới của phát ngôn, lời mời trong tiếng Việt được chia làm hai loại: Lời
mời đích thực và lời mời không đích thực. Từng kiểu dạng lời mời theo cách nhìn
của người viết lại được chia thành các tiểu loại khác nhau. Đây chính là nét riêng
biệt của lời mời tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp.
Từ khóa: Lời mời, hoạt động giao tiếp, lời mời trong tiếng Việt.
1. Mở đầu
Trong giao tiếp, chúng ta nói tức là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một
hành động đặc biệt mà phương tiện được sử dụng là ngôn ngữ, đó là hành động ngôn ngữ.
Dựa vào lí thuyết hành động ngôn ngữ, bài viết này nhằm xác định các dấu hiệu để nhận
biết lời mời thường gặp trong giao tiếp tiếng Việt.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Về khái niệm cầu khiến
Cầu khiến là khái niệm ngữ pháp học truyền thống, được coi là một trong những
kiểu câu phân loại theo mục đích nói như: câu hỏi, câu cảm, câu tường thuật, câu cầu
khiến.
Cầu khiến (directive) là loại hành động ngôn ngữ được người nói sử dụng nhằm
điều khiển người nghe hành động theo chủ ý của mình. Tùy theo lực ở lời và hiệu lực suy
ngôn của chúng, các hành động cầu khiến có thể có những tác động tích cực (làm lợi)
hoặc tiêu cực (làm thiệt) khác nhau cho người nói và người nghe.
Hành động cầu khiến có thể được xác định theo hai cách hiểu rộng, hẹp khác nhau.
Hiểu rộng, cầu khiến là hành động mà thông qua đó người nói (SP1) muốn tạo ra sự thay
Ngày nhận bài 11/4/2013. Ngày nhận đăng 20/06/2013.
Liên lạc Vũ Tiến Dũng, e-mail: vutiendungtb@gmail.com
66
Tìm hiểu lời mời trong giao tiếp tiếng Việt
đổi trong hành động của người nghe (SP2) bất kể là hành động đó có lợi hay hại cho cả
SP1 và SP2 như các hành động mời mọc, cho phép, sai khiến. . . Theo nghĩa hẹp, cầu
khiến là hành động mà SP1 thực hiện nhằm buộc SP2 làm một cái gì đó theo chủ ý của
SP1, nhằm đem lại lợi ích cho SP1 và thường gây thiệt hại cho SP2, như các hành động:
ra lệnh, sai bảo, nhờ vả. . . Như vậy, cầu khiến bao gồm: ra lệnh, sai bảo, yêu cầu, đề nghị,
nhờ vả, mời mọc, cho phép, van nài, cầu xin. . .
Theo Vũ Thị Thanh Hương, xét theo mức lợi thiệt mà SP1 và SP2 nhận được thì
cầu khiến có thể chia ra làm hai loại [3]:
a. Cầu khiến cạnh tranh
b. Cầu khiến hòa đồng.
Cũng theo tác giả này, cầu khiến cạnh tranh là hành động mà lợi ích của SP1 thường
đối lập với lợi ích của SP2; SP2 thường bị thiệt, còn SP1 được lợi hay chí ít thì cũng trung
hòa. Chính sự mâu thuẫn về lợi ích này mà cầu khiến cạnh tranh tiềm tàng nhiều nguy cơ
đe dọa thể diện của SP2. Một số hành động cầu khiến cạnh tranh như: thỉnh cầu, ra lệnh,
nhờ vả. . . mang nhiều tính chất của một lời yêu cầu.
Cầu khiến hòa đồng là hành động cầu khiến mà lợi ích của SP1 và SP2 hòa đồng
với nhau (cả hai cùng được lợi) hoặc thường cũng không đối lập nhau, SP2 luôn được lợi
còn SP1 thì trung hòa (hay chịu thiệt theo ý muốn) như: mời mọc, rủ rê, cho phép. . . Lời
cầu khiến hòa đồng mang nhiều tính chất của lời đề nghị.
2.2. Lời mời trong hoạt động giao tiếp
Trong đời sống xã hội thường ngày, chúng ta thực hiện rất nhiều hoạt động lời nói
khác nhau, trong đó có bao gồm việc mời, thực hiện lời mời và từ chối lời mời. Nhìn từ
quan điểm ngữ dụng học, dưới góc độ hành động ngôn ngữ, lời mời được coi là một hành
động cầu khiến mang nhiều tính lịch sự.
Lời mời là lời nói thể hiện thái độ tôn kính, trân trọng, thân thiện, lịch sự và hiếu
khách của người mời; đồng thời xuất phát từ phương diện lợi ích có được thì lời mời là
hành động mang lại nhiều lợi ích cho người được mời. Mời thể hiện thái độ tích cực của
người nói trong việc mong muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với người nghe (người được mời)
và đây cũng là hành động nhằm tôn vinh thể diện của người được mời.
Trong giao tiếp, người ta có rất nhiều lí do để mời mọc nhau. Với bản chất là lợi ích
có được của người nghe, lời mời được xếp vào loại hành động cầu khiến hòa đồng. Căn cứ
vào các tiêu chí để phân loại hành động ở lời, lời mời được xếp vào loại hành động điều
khiển theo quan niệm của Searle. Đích ở lời của một hành động ngôn ngữ là mục đích mà
hành động ngôn ngữ đó hướng tới. Ví dụ, đích của hành động khen là sự bày tỏ trạng thái
vui thích, hài lòng của SP1 đối với SP2 hoặc sự vật, sự việc có liên quan tới SP2. Đích ở
lời của hành động mời là đặt người nghe vào trách nhiệm thực hiện một hành động tương
lai. Hướng khớp ghép là mối quan hệ ăn khớp giữa ngôn từ trong phát ngôn với thế giới
của một hành động. Hành động mời có hướng khớp ghép là hiện thực – lời (tức hiện thực
phải phù hợp với phát ngôn). Trạng thái tâm lí của một hành động ngôn ngữ được Searle
67
Vũ Tiến Dũng
xác định là trạng thái có thực của SP1 trong khi phát ngôn. Trạng thái tâm lí của hành
động mời là mong muốn của SP1. Nội dung mệnh đề được xác định là một sự kiện, hành
động hay tính chất nào đó có liên quan tới SP2. Nội dung mệnh đề của hành động mời là
hành động tương lai của SP2. Ví dụ: Mời bà ngồi vào trong xe kẻo ướt.
2.3. Vấn đề nhận diện lời mời
Để nhận diện một hành động ngôn ngữ nào đó, ngữ pháp truyền thống thường dựa
vào phương diện hình thức. Ví dụ, một câu có động từ vị ngữ ở kiến trúc mệnh lệnh được
coi là câu cầu khiến. Việc nhận diện hành động mời cũng vậy, tức là những hành động có
chứa động từ mời trong phát ngôn thì được coi là những hành động mời. Chẳng hạn:
- Đi đường xa chắc mệt. Mời bác đi nghỉ sớm.
- Mời các ông vào trong này.
Hành động mời còn được biểu hiện bằng những dạng thức ngữ pháp khác nữa như
những lời mời nguyên cấp. Không khó khăn lắm, người Việt sẽ nhận diện được những
phát ngôn sau đây là những lời mời:
- Canh bánh đa nóng. Ông xơi ạ!
- Ông xơi một bát canh nhà cháu mới múc.
Như vậy, chúng ta không thể đơn thuần căn cứ vào phương diện hình thức để nhận
diện hành động mời. Một số nhà nghiên cứu lí thuyết về hành động ngôn ngữ lại chủ
trương dựa vào các điều kiện thực hiện chúng để phân loại.
Theo Searle, một hành động mời có thể được nhận diện thông qua việc phân tích
các điều kiện thực hiện. Đó là điều kiện nội dung mệnh đề, điều kiện chuẩn bị, điều kiện
chân thành và điều kiện căn bản. Như vậy, lời mời có thể được nhận diện như sau:
1. Điều kiện nội dung mệnh đề: Hành động tương lai A của người nghe SP2.
2. Điều kiện chuẩn bị:
a. SP2 có khả năng thực hiện A. Người nói SP1 cho rằng SP2 có khả năng thực hiện
A.
b. Nếu không mời thì cả đối với SP1 lẫn SP2 đều không chắc rằng SP2 sẽ thực hiện
A bất kể thế nào.
3. Điều kiện chân thành: SP1 mong muốn rằng SP2 thực hiện A.
4. Điều kiện căn bản: Nhằm dẫn SP2 đến việc thực hiện A.
Lời mời nếu xét theo mức độ thiệt - lợi thì SP2 thường được lợi, còn SP1 thường
chịu thiệt hoặc chí ít cũng trung hòa nhưng trong thực tế giao tiếp cho thấy không phải tất
cả các lời mời đều mang lại lợi ích cho SP2 và tổn thất, thiệt hại cho SP1. Ví dụ, khi SP1
mời SP2 thực hiện A nhưng SP1 còn có một số mong muốn khác nữa như sau khi SP2
thực hiện A thì SP2 tiếp tục thực hiện A’, A’ có lợi cho SP1 và A’ đối với SP2 có thể trung
hòa hoặc bất lợi. Nói cách khác, khi SP1 mời SP2 với một động cơ cá nhân có hàm ý vụ
lợi cho riêng mình thì không chắc rằng hành động mời này đã đem lại lợi ích cho SP2.
Đây là một vấn đề tế nhị và phức tạp không dễ gì nhận diện nên bài viết chưa đi sâu vào
68
Tìm hiểu lời mời trong giao tiếp tiếng Việt
phân tích các hành động mời theo hướng này.
2.4. Các kiểu dạng lời mời
2.4.1. Lời mời không đích thực
Thực tế giao tiếp cho thấy rằng không phải bất kì một phát ngôn nào có chứa động
từ ngôn hành mời đều là những hành động mời đích thực. Nhiều phát ngôn mời dưới dạng
tường minh hoặc hàm ẩn xét trên phương diện lợi ích - tổn thất thì không hề mang lại lợi
ích cho SP2. Trong những ngữ cảnh cụ thể, những phát ngôn mời này có thể được hiểu
như là những hành động ngôn ngữ khác như hành động chào, hành động bộc lộ, hành
động ra lệnh. . .
a. Mời để chào
- Mời để chào khi gặp mặt:
Có thể nhận ra lời mời dạng này qua cuộc thoại ngắn sau:
A và B là hàng xóm, nhà A ở cạnh nhà B. Gia đình nhà A đang ăn cơm, thấy B đi
ngang qua cửa, A mời:
SP1: Bác vào nhà dùng cơm với gia đình.
SP2: Vâng, nhà mình đã dùng bữa rồi đấy à?
Lượt lời của SP1 là một lời mời gián tiếp, tức là hành động mời không sử dụng động
từ ngôn hành mời. Xét trong ngữ cảnh cụ thể này, phát ngôn của SP1 được hiểu như là
một lời chào. Bởi vì, nếu coi lượt lời của SP1 là một hành động mời thì sự tiếp nhận lời
mời này ở SP2 sẽ có hai khả năng:
Khả năng 1: SP2 nhận lời và cùng dùng cơm.
Khả năng 2: SP2 từ chối bằng những cách thức khác nhau.
Thực tế trong đời sống giao tiếp, ứng xử của người Việt thì không bao giờ SP2 “vào
cùng dùng cơm với gia đình” SP1. Căn cứ vào những khả năng có thể xảy ra trong lượt
lời của SP2 và căn cứ vào lượt lời hồi đáp của SP2 trong ví dụ trên, chúng ta nhận thấy
lượt lời hồi đáp này dưới hình thức hỏi nhưng lại nhằm hướng tới đích ở lời của hành động
chào. Theo đó, lượt lời của SP1 trong bối cảnh giao tiếp trên cũng được SP1, SP2 mặc
định như là một lời chào chứ không phải là một lời mời.
Cũng có thể hiểu đây là hình thức mời - chào (mời để chào) trong tiếng Việt.
Tương tự như vậy, hình thức mời – chào có thể nhận thấy qua ví dụ sau:
A và B cùng làm trong một cơ quan, B chưa biết nhà của A, một hôm B tình cờ đi
qua nhà A, A đang đứng trước cửa nhà:
SP1: Anh đi đâu vậy ạ?
SP2: Thế ra nhà mình ở khu này à?
SP1: Vâng, anh vào chơi cho biết nhà.
SP2: Thôi, anh để cho khi khác. Tôi đang đi có việc.
- Mời để chào khi chia tay:
69
Vũ Tiến Dũng
Ví dụ: Một nhóm bạn đến nhà A chơi.
H (một người trong nhóm bạn):
a. Mọi người về sau nhé, mình xin phép về trước.
A (chủ nhà):
b. Chiều lại sang nhé.
Hoặc A có thể đáp:
c. Vâng, mời anh chiều lại đến chơi nhé!
b. Mời với lực ở lời yêu cầu, ra lệnh
Trong nhiều trường hợp, người nói sử dụng phát ngôn có chứa động từ ngôn hành
mời nhưng đích đạt tới của phát ngôn không phải là mong muốn mang lại một lợi ích nào
đó cho SP2 mà là một lời yêu cầu, một mệnh lệnh có tính lịch sự mà SP1 muốn SP2 thực
hiện. Chẳng hạn:
Ban quản trị đang họp, mời anh đi ra cho!
Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, lời mời còn được sử dụng như một
cách thức để bày tỏ thái độ, sự kính trọng của những người bậc dưới đối với người bậc
trên, sự quan tâm của người bậc trên đối với người dưới bậc; đồng thời lời mời nhiều khi
được sử dụng như một phương tiện để thể hiện thái độ lịch sự trong giao tiếp của người
Việt Nam.
2.4.2. Lời mời đích thực
Lời mời được dùng để thay thế cho lời chào cũng như lời mời để bày tỏ thái độ, sự
kính trọng, lịch sự của người nói đối với người bậc trên không được xem là những lời mời
đích thực. Lời mời đích thực xét trên phương tiện biểu hiện có thể chia làm hai loại: Lời
mời có động từ ngôn hành mời và lời mời không có động từ ngôn hành mời.
a. Lời mời có chứa động từ ngôn hành mời
Mời là hoạt động lời nói phổ biến trong giao tiếp thường ngày; lời mời có thể thay
đổi tùy theo tình huống do các mối quan hệ liên nhân, mục đích và hoàn cảnh giao tiếp
quy định. Lời mời có chứa động từ ngôn hành mời còn được gọi là những lời mời tường
minh hay lời mời trực tiếp. Một hành động mời tường minh ở dạng đầy đủ thường gồm có
các yếu tố: Người mời + động từ mời + người được mời + nội dung lời mời + tình thái từ.
Ví dụ: - Cháu mời chú xơi nước ạ.
- Con mời bà vào nhà xơi nước ạ.
Dạng thức đầy đủ của lời mời thường được sử dụng khi người mời ở vị thế giao tiếp
thấp hơn so với người được mời và biểu thị thái độ lễ phép của người mời. Thực tế giao
tiếp cho thấy trong hoàn cảnh giao tiếp phi quy thức khi người mời có vị thế cao hơn so
với người được mời thì thường không sử dụng lời mời ở dạng đầy đủ. Chẳng hạn, người
bà rất ít khi mời những người thuộc hàng con cháu của mình bằng những lời mời đại thể
như: Bà mời các cháu vào nhà chơi ạ. Bà mời các cháu xơi cơm đi ạ.
Tuy nhiên, thực tế khảo sát cho thấy một hành động mời tường minh thường không
70
Tìm hiểu lời mời trong giao tiếp tiếng Việt
đầy đủ các thành phần trên và hầu hết các lời mời trực tiếp thường xuất hiện dưới dạng:
Động từ mời + người được mời + nội dung mời và người mời thường ẩn đi. Ví dụ:
- Mời bác ngồi chơi xơi bắp ngô.
- Thầy em đi làm sắp về. Mời anh ngồi chơi đợi chút xíu nữa.
Lời mời dạng này vẫn được nhìn nhận là lịch sự mang tính thân hữu, được dùng phổ
biến trong hoàn cảnh giao tiếp phi quy thức và thường không bị tương quan vị thế giữa
người mời với người được mời tác động.
Trong nhiều trường hợp, khi đối tượng được mời ở vai trên, hoặc ngang vai, và trong
hoàn cảnh giao tiếp quy thức, người mời thường lựa chọn các yếu tố ngôn ngữ chuyên dụng
để bộc lộ thái độ kính trọng đối với người được mời như: Xin, kính, xin trân trọng kính
trước động từ ngôn hành mời. Ví dụ:
- Xin mời bác vào để đại hội tỏ lòng biết ơn một người trồng cây.
- Kính mời quý khách cùng thân nhân hai họ nâng ly chúc mừng hạnh phúc của cô
dâu, chú rể.
- Xin trân trọng kính mời đại diện nhà trai lên phát biểu ý kiến.
Trường hợp khi tình huống đã được cụ thể hóa mang tính phi quy thức thì cấu trúc
của lời mời có thể được rút gọn xuống chỉ còn lại hai thành phần: động từ mời và đối
tượng mời. Ví dụ:
- Mời chị! Xin mời bà chị! Chưa lăn xuống khe còn là may đấy.
- Mời bác, ta làm một quai cho đỡ buồn!
b. Lời mời không chứa động từ ngôn hành mời
Bên cạnh lời mời trực tiếp có động từ ngôn hành mời, tiếng Việt còn có những lời
mời không chứa động từ ngôn hành mời nhưng vẫn có hiệu lực mời. Hầu hết các lời mời
không chứa động từ ngôn hành mời là những lời mời gián tiếp. Đó là những phát ngôn
vẫn có hiệu lực ở lời: mời mặc dù không sử dụng động từ ngôn hành: mời. Trong trường
hợp giữa các đối tác có quan hệ thân hữu, người nói muốn duy trì và phát triển quan hệ
với người nghe thì người nói thường sử dụng những hành động mời mà không chứa động
từ ngôn hành mời. Ví dụ:
a. Anh dừng tay vào uống nước đã.
b. Anh ngồi xuống đây. Vừa uống nước vừa nghỉ ngơi, đi đâu mà vội.
c. Ăn đi mày! Ngon lắm (hai người bạn thân).
Một số câu hỏi trong những ngữ huống giao tiếp cụ thể được sử dụng để thực hiện
hành động mời giữa những người có quan hệ thân hữu với nhau. Ví dụ:
a. Nhà có trà ngon đấy. Anh có dùng được trà không?
b. Hôm nay mình có khách. Cậu ở lại ăn cơm với tớ có được không?
Lời mời gián tiếp trong giao tiếp của người Việt thường biểu hiện quan hệ lịch sự
thân hữu [2].
71
Vũ Tiến Dũng
3. Kết luận
Lời mời là một nghi thức lời nói và có mặt trong tất cả các ngôn ngữ trên thế giới
nhưng cách thức diễn đạt lời mời trong mỗi ngôn ngữ lại được biểu hiện khác nhau. Có
thể dễ nhận thấy những lời mời lịch sự trong tiếng Anh thường gắn với hành động ngôn
ngữ gián tiếp. Còn trong tiếng Việt, độ đo để xác định mức độ lịch sự của lời mời phụ
thuộc vào rất nhiều tham số: Quan hệ liên cá nhân, hoàn cảnh giao tiếp, thoại trường và
các yếu tố ngôn ngữ có mặt trong lời mời. Đây không phải là những vấn đề mới mẻ nhưng
vẫn cần những nghiên cứu tiếp theo để chúng ta hiểu thêm về văn hóa ứng xử khéo léo và
tinh tế của người Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đỗ Hữu Châu, 2001. Đại cương ngôn ngữ học – Ngữ dụng học, tập hai. Nxb Giáo
dục.
[2] Vũ Tiến Dũng, 1997. Lời chào với từ chào, lời mời với từ mời và tính lịch sự Việt Nam.
Hội thảo khoa học Nghiên cứu so sánh đối chiếu các ngôn ngữ, ngành Ngôn ngữ học,
Hà Nội, tr.14 – 15.
[3] Vũ Thị Thanh Hương. 1999. Lịch sự và phương thức biểu hiện tính lịch sự trong lời
cầu khiến tiếng Việt, Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt. Nxb Khoa
học Xã hội, tr.135 – 175.
ABSTRACT
Vietnamese invitations as a form of communicative activity
Invitations are phrases that express an inviters’ respectable, polite, friendly and hos-
pitable attitude. In terms of benefits achieved, invitations are actions of kindness to the
invitees. Vietnamese invitations can be divided into two categories: REAL and UNREAL.
Each kind of invitation, according to the Vietnamese point of view, can be subdivided into
different subcategories. This distinguishes Vietnamese invitations as communicative ac-
tivities.
72