Tìm hiểu mô hình công ty mua bán nợ quốc gia của Cộng hòa Ai – len

Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa Ai-len vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn các khoản nợ xấu. Để đối phó với cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Ai-len đã đưa ra sáng kiến thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành mạnh hệ thống ngân hàng. Trước đó, hệ thống ngân hàng Ai-len đã cho vay quá mức đối với lĩnh vực bất động sản, và khi thị trường này suy giảm mạnh kể từ năm 2007 thì nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã tăng vọt. Tình hình đó làm cho nguồn vốn pháp định của các ngân hàng thương mại suy giảm nhanh chóng, do vậy đòi hỏi phải có hành động chỉnh sửa thích hợp nhằm vượt qua tình trạng bất ổn định và khôi phục lại bảng cân đối tài sản của các định chế tài chính. Chính vì vậy, NAMA đã được thành lập vào ngày 21/12/2009 với 5 định chế thành viên gồm Ngân hàng Liên kết Ai-len, Ngân hàng thương mại Ai-len, Ngân hàng Ăng-lô Ai-len, Hiệp hội xây dựng toàn quốc Ai-len, và Hiệp hội xây dựng EBS. Để tạo ra khung pháp lý cho hoạt động của Công ty mua bán nợ quốc gia này, một đạo luật cũng đã được Nghị viện Ai-len thông qua vào tháng 11/2009.

doc13 trang | Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu mô hình công ty mua bán nợ quốc gia của Cộng hòa Ai – len, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tìm hiểu mô hình công ty mua bán nợ quốc gia của Cộng hòa Ai – len. Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa Ai-len vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn các khoản nợ xấu. Để đối phó với cuộc khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Ai-len đã đưa ra sáng kiến thành lập công ty mua bán nợ quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành mạnh hệ thống ngân hàng. Trước đó, hệ thống ngân hàng Ai-len đã cho vay quá mức đối với lĩnh vực bất động sản, và khi thị trường này suy giảm mạnh kể từ năm 2007 thì nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã tăng vọt. Tình hình đó làm cho nguồn vốn pháp định của các ngân hàng thương mại suy giảm nhanh chóng, do vậy đòi hỏi phải có hành động chỉnh sửa thích hợp nhằm vượt qua tình trạng bất ổn định và khôi phục lại bảng cân đối tài sản của các định chế tài chính. Chính vì vậy, NAMA đã được thành lập vào ngày 21/12/2009 với 5 định chế thành viên gồm Ngân hàng Liên kết Ai-len, Ngân hàng thương mại Ai-len, Ngân hàng Ăng-lô Ai-len, Hiệp hội xây dựng toàn quốc Ai-len, và Hiệp hội xây dựng EBS. Để tạo ra khung pháp lý cho hoạt động của Công ty mua bán nợ quốc gia này, một đạo luật cũng đã được Nghị viện Ai-len thông qua vào tháng 11/2009. Luật lệ của Liên minh Châu Âu cấm không cho sử dụng công quỹ nhà nước để cứu ngân hàng vì có thể gây ra hậu quả đối xử thiên vị cho một số tổ chức nhất định, do đó bóp méo sự cạnh tranh trong toàn Liên minh, nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ nhằm khắc phục tình trạng bất ổn trong nền kinh tế của nước thành viên Liên minh. Tuy nhiên, bất cứ một trường hợp ngoại lệ nào cũng phải được sự chấp thuận của Ủy ban Liên minh. Ngày 26/2/2010 đề án NAMA đã được chính thức thông qua, và cuối tháng 2 các khoản tiền đầu tiên từ ngân sách nhà nước đã được giải ngân cho NAMA. Trong giai đoạn đầu, NAMA đã mua hoặc chuyển nhượng tài sản nợ trị giá 71 tỷ bảng Anh từ 850 con nợ và hơn 11.000 khoản nợ được thế chấp bằng 16.000 công trình bất động sản. Khoảng 2/3 trong số các công trình bất động sản thế chấp cho các khoản vay này nằm tại Ai-len, hầu hết số còn lại nằm tập trung tại Anh, Hoa kỳ và trên toàn Châu Âu. Để có được các khoản nợ này, NAMA đã phát hành chứng khoán do chính phủ bảo lãnh cho 5 đơn vị thành viên của mình. Nhân tố chính quyết định giá cả do NAMA chi trả cho việc mua các khoản nợ là giá thị trường hiện hành của các tài sản thế chấp (chủ yếu là bất động sản) cho các khoản nợ. Các nhân tố khác bao gồm tính chất hoàn chỉnh hoặc không hoàn chỉnh của các hồ sơ vay mượn, giá trị của các tài sản đảm bảo ngoài bất động sản (như cổ phiếu, tiền mặt, các tác phẩm nghệ thuật vv) và các khiếm khuyết trong thế chấp vay nợ được coi là một phần trong quá trình xem xét cân nhắc. Tính chung tất cả các yếu tố cộng lại, việc NAMA cân nhắc đánh giá để chi trả cho các khoản nợ mua được trong năm 2010 trị giá khoảng 42% số dư danh nghĩa của các khoản nợ, đạt mức chiết khấu bình quân là 58%. NAMA là một công ty đặc biệt có Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc do cơ quan thẩm quyền bổ nhiệm. Hội đồng quản trị hoạt động độc lập theo đúng luật định và tuân thủ trách nhiệm giải trình công khai ở mức độ cao. Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị phải tham dự các cuộc họp và cung cấp tài liệu cho Ủy ban Kế toán nhà nước và các Ủy ban khác của hai viện của nghị viện bất cứ lúc nào được yêu cầu. Ngoài việc công bố chi tiết bảng cân đối tài sản thường niên, NAMA phải nộp các báo cáo hoạt động hàng quý, kể cả các thông tin về các khoản nợ, các hợp đồng mua bán và các khoản thu chi cho cơ quan thẩm quyền. Các báo cáo này phải được đăng tải trên bảng tin điện tử sau khi đã nộp cho hai viện của nghị viện. Nói tóm lại, NAMA là một tổ chức phức tạp. Không giống như các doanh nghiệp khác hoạt động nhằm mục đích phát triển quy mô qua thời gian, NAMA bắt đầu hoạt động với một bảng cân đối tài sản hoành tráng và hướng tới mục tiêu thu hẹp dần qua các giai đoạn. NAMA có nhiệm vụ hoạt động làm sao đem lại kết quả kinh doanh tốt nhất cho nhà nước từ những tài sản mua được. Ở vào thời kỳ đầu, NAMA đã mua được 11.500 khoản vay nợ liên quan đến đất đai và nhà cửa từ 5 định chế nêu trên, và tiếp theo sau đó là xây dựng mối quan hệ sâu rộng với các con nợ để hiểu rõ thêm hoạt động kinh doanh của họ và bắt đầu xây dựng một chiến lược trả nợ. Giai đoạn cuối cùng và lâu dài nhất là đề ra một loạt các cột mốc cắt giảm nợ nhằm hoàn tất việc chi trả đầy đủ nghĩa vụ của cả các con nợ và các khoản vay của NAMA vào năm 2019. Như vậy, NAMA thực hiện 3 chức năng hoạt động chính là mua nợ, xây dựng quan hệ với các con nợ và chi trả các khoản nợ. - Hoạt động mua nợ : NAMA thực hiện mua nợ theo từng đợt. Trong bước đi đầu tiên, 5 định chế thành viên phải xác định các khoản vay hợp lệ theo đúng luật pháp, sau đó cung cấp cho NAMA các thông tin cụ thể của từng khoản vay, kể cả chi tiết số dư khoản vay, các bất động sản và các tài sản khác được cam kết làm thế chấp. Họ cũng phải thông báo cho NAMA biết mọi khó khăn pháp lý liên quan đến khoản vay và khoản thế chấp cơ bản. Cuối cùng, các định chế phải thông báo cho NAMA việc định giá các bất động sản cơ bản. Thông tin do các định chế thành viên cung cấp được NAMA xem xét, đánh giá hết sức kỹ lưỡng, bao gồm việc thẩm định về mặt pháp lý quyền chủ sở hữu của các bất động sản để phát hiện ra những khiếm khuyết có thể gây khó khăn cho NAMA trong việc xử lý khoản nợ hoặc trong việc thực thi hành động. Việc cân nhắc đánh giá cũng phải xem xét các đặc điểm của chính khoản nợ chẳng hạn như khoản thu nhập mà khoản nợ đó có thể tạo ra. Nhân tố chính xác định mức độ mà NAMA chi trả cho một khoản nợ cụ thể chính là bất động sản được thế chấp cho khoản nợ đó. Ví dụ nếu bất động sản được thế chấp cho một khoản vay 100 triệu bảng Anh mà giá hiện hành chỉ là 60 triệu bảng Anh, thì NAMA chỉ chi trả 60 triệu bảng Anh cho khoản nợ đó mà thôi. - Xây dựng mối quan hệ với con nợ. NAMA quản lý trực tiếp 180 con nợ lớn nhất (chiếm 61 tỷ bảng Anh trong giá trị danh nghĩa của tổng các khoản nợ mua được) và xây dựng mối quan hệ với các con nợ này ngay sau khi mua được các khoản nợ. Các cuộc họp đầu tiên đã được tổ chức để cho các con nợ giới thiệu với NAMA nhóm quản lý danh mục nợ của họ và thực hiện việc trao đổi các vấn đề liên quan đến các dự án và các kế hoạch. NAMA yêu cầu mỗi con nợ trình bày kế hoạch kinh doanh mà mục đích chính là giới thiệu đầy đủ tình hình tài chính và trình bày kế hoạch chi tiết về các biện pháp và thời gian thanh toán tất cả các khoản nợ cho NAMA. Kế hoạch kinh doanh của con nợ thông thường được một chuyên viên tư vấn độc lập thẩm định tính hợp lý của các giả thuyết do con nợ đưa ra, phân tích một cách chi tiết dự tính dòng tiền và đưa ra đánh giá độc lập về kế hoạch đó. Sau đó, đánh giá này sẽ được Hội đồng quản trị, Ban tín dụng, Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc của NAMA xem xét dựa trên cơ sở ý kiến phân tích của nhóm công tác do Hội đồng quản trị ủy quyền. Các yếu tố khác được tính đến bao gồm mức độ hợp tác của con nợ với NAMA và chất lượng quản trị điều hành của con nợ. Quy trình này cuối cùng sẽ dẫn đến việc chấp nhận kế hoạch kinh doanh của con nợ hoặc phải sử dụng biện pháp áp đặt. Biện pháp áp đặt chỉ được thực hiện trong trường hợp các con nợ không thể chứng minh được khả năng thanh toán các nghĩa vụ nợ hoặc trong những trường hợp bất hợp tác trong quy trình. Việc áp đặt không phải là kế sách mong muốn của NAMA, bởi vì mục tiêu được công bố của nó là cố gắng đạt được sự nhất trí trong xử lý nợ với càng nhiều con nợ càng tốt. Hoạt động tín dụng vẫn được tiếp tục trong khi vẫn diễn ra việc xây dựng mối quan hệ với con nợ. - Chi trả các khoản nợ: Đối với hầu hết các con nợ, quy trình đánh giá kế hoạch kinh doanh dẫn đến sự thỏa thuận với NAMA và cam kết để thực hiện việc chi trả nợ theo thỏa thuận. Thỏa thuận trả nợ còn bao gồm một số lĩnh vực khác như hoán đổi việc chuyển nhượng tài sản, tổng chi phí của công ty, các tài sản phi bất động sản và thu nhập từ việc cho thuê bất động sản. Kế hoạch kinh doanh của con nợ bao gồm các mốc thời gian trả nợ sẽ được NAMA giám sát chặt chẽ. Nếu con nợ không tuân thủ các nghĩa vụ nêu trong hợp đồng, thì biện pháp áp đặt có thể được thực hiện. Điều này có nghĩa là NAMA sẽ chỉ định một cán bộ quản lý các tài sản làm thế chấp cho khoản nợ. Việc hoàn thành các mục tiêu giảm nợ đã được thỏa thuận yêu cầu cần phải có một chương trình phát mại tài sản bởi con nợ. Thời điểm cho việc phát mại này tùy thuộc vào loại bất động sản, địa điểm của bất động sản và thời gian hết hạn của các hợp đồng cho thuê liên quan. Hội đồng quản trị của NAMA đã đề ra các mục tiêu cắt giảm tổng số các khoản nợ trong thời gian hoạt động của mình, trong đó có mục tiêu cắt giảm 25% tổng số các khoản nợ vào năm 2013, 80% vào năm 2017 và 100% vào năm 2019. Một số kinh nghiệm xử lý nợ xấu cho Việt Nam. Những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nợ công tới “sức khỏe” nền kinh tế thế giới trong thời gian qua cho thấy, nợ công là một vấn đề mang tính toàn cầu, mà bất cứ một quốc gia nào dù mạnh hay yếu cũng có nguy cơ gặp phải. Vì thế, những bài học được rút ra từ các nền kinh tế đã và đang diễn ra khủng hoảng nợ công là kinh nghiệm quý giá cho Việt Nam trong quá trình phát triển. Nhìn lại 2 cuộc khủng hoảng nợ công trên thế giới 1. Khủng hoảng nợ khu vực Mỹ Latinh những năm 1980 Cuộc khủng hoảng nợ diễn ra ở các quốc gia Mỹ Latinh những năm 1970 và 1980 được xem là thảm họa lớn nhất trong lịch sử khu vực này, kể từ sau cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930 và đây cũng là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên trong lịch sử kinh tế hiện đại. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mexico (1982) khi quốc gia này tuyên bố vỡ nợ, sau đó hầu hết các quốc gia trong khu vực cũng đều không tránh khỏi vòng xoáy này đó là: Argentina (1982, 1989), Bolivia (1980, 1986, 1989), Brazil (1983, 1986-1987) và Ecuador (1982, 1984). Nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ tại Mỹ Latinh là: (i) Việc đầu tư quá nhiều vào kết cấu hạ tầng nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa dẫn đến việc chính phủ bội chi ngân sách kéo dài một cách trầm trọng; (ii) Gia tăng tỷ lệ nhập siêu do nhập khẩu nhiều nguyên, vật liệu, cũng như công nghệ sản xuất từ nước ngoài để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa. Hai điều trên dẫn đến sự gia tăng ngày càng lớn nhu cầu về nguồn vốn của chính phủ. Do đó, họ đã phải đi vay rất nhiều tiền từ các quốc gia phát triển khác và các tổ chức tài chính quốc tế. Việc vay nợ nước ngoài với quy mô lớn tiềm ẩn nhiều rủi ro và không thể tiếp diễn được mãi. Vào năm 1979, Mỹ thực hiện hàng loạt chính sách thắt chặt và đẩy lãi suất gia tăng. Điều này tương tự xảy ra với các quốc gia châu Âu, khiến dòng vốn đầu tư toàn cầu bắt đầu chảy ngược ra khỏi các quốc gia đang phát triển. Đồng thời, lãi suất gia tăng làm cho nghĩa vụ nợ tại các quốc gia Mỹ Latinh tăng lên. Ngoài ra, khả năng trả nợ nước ngoài của các quốc gia Mỹ Latinh lại phụ thuộc chủ yếu vào xuất khẩu. Do suy thoái kinh tế đầu những năm 1980 làm thu hẹp thương mại quốc tế cũng như giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá cả các nguyên liệu thô, khiến nguồn thu từ xuất khẩu tại các quốc gia này giảm mạnh. Bảng 1: Tổng vốn đầu tư các quốc gia lớn, nhỏ và Mỹ Latinh qua nhiều giai đoạn (% GDP) 1950- 1957 1958- 1967 1968- 1974 1975- 1980 1981- 1990 1991- 1997 1998- 2003 2004- 2008 2008- 2010 Trung bình cộng Các quốc gia lớn 23,9 20,1 21,6 24,3 19,1 19,6 18,3 21,5 23,3 Các quốc  gia nhỏ 14,2 15,7 18,1 21,5 17,0 19,2 20,0 19,8 19,1 Mỹ Latinh 19,1 17,6 19,5 22,6 17,8 19,4 19,4 20,5 20,8 Trung bình  trọng số Các quốc  gia lớn 21,0 19,5 22,2 25,1 18,9 18,2 18,0 19,9 20,9 Các quốc gia nhỏ 15,8 16,8 17,7 22,2 16,9 18,6 19,3 19,1 18,7 Mỹ Latinh 20,7 19,1 21,9 24,9 18,8 18,2 18,1 19,8 20,7 Nguồn: Bertola & Ocampo (2012) Không thể duy trì được sự ổn định kinh tế, trong khi giá trị các khoản nợ lại gia tăng mạnh làm cho rủi ro nợ nước ngoài của khu vực Mỹ Latinh đã vượt quá khỏi tầm kiểm soát. Khi Mexico tuyên bố vỡ nợ đã ngay lập tức khiến các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính quốc tế siết chặt và trì hoãn vô thời hạn đối với các khoản vay đến khu vực Mỹ Latinh. Lại do phần lớn các khoản nợ đều trong ngắn hạn, nên việc không được bơm tiếp tín dụng làm cho các quốc gia này nhanh chóng bị cuốn vào vòng xoáy, dẫn đến một cuộc khủng hoảng dây chuyền. 2. Khủng hoảng nợ công châu Âu Cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt đầu từ nửa sau năm 2009 với sự gia tăng mức nợ công của nhóm PIIGS (Bồ Đào Nha, Ireland, Italya, Hy Lạp và Tây Ban Nha). Hy Lạp là quốc gia đầu tiên bước vào vòng xoáy này, với mức thâm hụt ngân sách đạt tới 13,6% GDP. Nợ công Hy Lạp cũng lên tới 236 tỷ Euro, chiếm khoảng 115% GDP của Hy Lạp vào năm 2009. Vào tháng 11/2010, Ireland chính thức trở thành nạn nhân thứ hai của cơn bão khủng hoảng nợ công khi phải cầu viện với EU và IMF. Bước sang năm 2011, Bồ Đào Nha tiếp tục là quốc gia thứ ba rơi vào khủng hoảng khi tuyên bố mức thâm hụt ngân sách đã lên tới 8,5%GDP, cùng với đó nợ công cũng đã vượt quá 90% GDP. Ý và Tây Ban Nha mặc dù chưa thực sự rơi vào khủng hoảng, nhưng cũng rơi vào vòng nguy hiểm. Thâm hụt ngân sách của Ý vào năm 2011 mới chỉ ở mức 5% GDP, nhưng nợ công đã xấp xỉ 120% GDP. Tây Ban Nha nợ công ở mức 72% GDP, trong khi thâm hụt ngân sách lại rất cao, gần 9% GDP. Bảng 2: Nợ công và thâm hụt ngân sách nhóm PIIGS 2006-2011 (% GDP) 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Nợ công Thâm hụt Nợ công Thâm hụt Nợ công Thâm hụt Nợ công Thâm hụt Nợ công Thâm hụt Nợ công Thâm hụt Bồ Đào Nha 64,7 -3,9 63,6 -2,6 66,3 -2,8 76,8 -9,4 85,8 -8,5 91,1 -7,9 Ireland 24,9 3,0 25,0 0,1 43,9 -7,3 64,0 14,3 98,6 -32,0 Italia 106,5 -3,3 103,5 -1,5 106,1 -2,7 115,8 -5,3 118,2 -5,3 118,9 -5,0 Hy Lạp 97,8 -3,6 95,7 -5,1 99,2 -7,7 115,1 -13,6 133,3 -8,1 145,1 -7,6 Tây Ban Nha 39,6 2,0 36,2 1,9 39,7 -4,1 53,2 -11,2 64,9 -9,8 72,5 -8,8 Nguồn: Featherstone (2011) Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu là do chính sách tài khóa thiếu bền vững và sự mất cân đối trong việc vay nợ của các quốc gia. Điển hình là Hy Lạp, kể từ khi gia nhập khối đồng tiền chung Eurozone vào năm 2001 cho đến khủng hoảng tài chính năm 2008, mức thâm hụt ngân sách được công bố trung bình vào khoảng 5% mỗi năm, trong khi con số này của cả khối Eurozone chỉ là khoảng 2% (IMF, 2009). Chính vì thế, Hy Lạp đã không thể duy trì được những chỉ số theo chuẩn của Ủy ban Kinh tế và Tiền tệ của EU (EMU), với mức trần thâm hụt ngân sách là 3% và nợ nước ngoài là 60% GDP. Tuy nhiên, Hy Lạp không phải là quốc gia duy nhất, bởi có đến 25/27 thành viên EU không đạt được cam kết này (Kirkegaard, 2009). Hy Lạp còn được báo chí nhắc đến rất nhiều về nạn trốn thuế, khi tăng trưởng GDP danh nghĩa trong giai đoạn 2000-2007 đạt mức trung bình 8,25%, thì mức tăng về thu thuế chỉ là 7% (Servera & Moschovis, 2008). Ngoài mức chi tiêu công thông thường, Hy Lạp còn phải trả giá cho khoản đầu tư công khổng lồ cho Olympic 2004. Để bù đắp cho khoản thâm hụt kép này, Hy Lạp đã đi vay trên thị trường vốn quốc tế và trong suốt một thập kỷ. Trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nước này đã trở thành “con nợ”, với tổng số nợ nước ngoài lên tới 115% GDP năm 2009. Đến năm 2010, báo cáo của OECD cho thấy, nợ công của Hy Lạp đã lên tới con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147,8% GDP. Các chuyên gia kinh tế cho biết, dù Hy Lạp có thực hiện được kế hoạch “thắt lưng, buộc bụng” kéo dài 3 năm, nợ của Hy Lạp đến năm 2012 vẫn tăng lên mức 172% GDP. Một nguyên nhân nữa dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu là sự hạn chế trong cơ chế phối hợp điều hành trong khu vực sử dụng đồng tiền chung Eurozone, nhất là giữa tiền tệ và tài khóa. Các quốc gia trong khu vực chủ yếu hợp tác trong các chính sách tiền tệ, nhằm đảm bảo duy trì giá trị đồng Euro, trong khi các chính sách tài khóa lại chưa có được một sự đồng thuận và hài hòa tương ứng. Rõ ràng, mặc dù đã có những quy định cụ thể về mức thâm hụt ngân sách cũng như nợ công, nhưng lại không có một cơ chế giám sát và quản lý hiệu quả đối với từng quốc gia thành viên. Chính vì vậy, sự kiện vỡ nợ tại một quốc gia là Hy Lạp đã kéo theo khủng hoảng niềm tin lan sang các quốc gia có chính sách tài khóa lỏng lẻo khác. Một nguyên nhân khác khiến cuộc khủng hoảng lan rộng và có nguy cơ trầm trọng hơn chính là việc thiếu cơ chế phối hợp ứng phó giữa các quốc gia trong khu vực. Hầu hết các quốc gia đều cố gắng thực hiện những chính sách của riêng mình và khi không thể “cứu” mới nhờ đến sự viện trợ của EU và IMF, mà không hề có những cảnh báo sớm với một chiến lược xử lý về dài hạn được đưa ra. * Một số bài học rút ra cho Việt Nam Nợ nước ngoài cao, thâm hụt ngân sách, chi tiêu quá khả năng là những nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng nợ công của các nền kinh tế, đó là những minh chứng thực tiễn sâu sắc đối với các quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, trong đó có Việt Nam. Vì thế, chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá nợ công trên các góc độ sau: - Thứ nhất, mô hình phát triển kinh tế: Việt Nam là 1 nước đang phát triển, nên có 1 tỷ lệ cao về đầu tư là 40% GDP trong khi chỉ có 27~30% GDP là nguồn vốn tiết kiệm của các hộ gia đình, nhiều hơn 10% những nguồn vốn từ bên ngoài (FDI, ODA, những khoản vay khác). Đây là một tỷ lệ rất cao so với trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới. Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Do đó, giảm lượng vốn đầu tư từ bên ngoài trong cấu trúc vốn nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn nước ngoài và thúc đẩy phát triển dựa trên đầu tư có hiệu quả là cần thiết trong mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam. - Thứ hai, giảm chi tiêu công và thâm hụt ngân sách: Một bài học từ nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc khủng hoảng tại các quốc gia Mỹ Latinh cũng như các quốc gia châu Âu (điển hình là Hy Lạp) là thâm hụt ngân sách. Do vậy, việc cần làm là Việt Nam nên thắt chặt công khố, thực hành tiết kiệm và chi tiêu công hợp lý, thận trọng trong những dự án đầu tư quy mô lớn tiêu tốn 1 lượng lớn vốn từ những khoản nợ nước ngoài. Điều này cần được quan tâm thực hiện, bởi hiện nay, Việt Nam đang có quá nhiều dự án quy mô lớn, như: mở rộng đô thị, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, đường sắt cao tốc Bắc - Nam - Thứ ba, công khai minh bạch thông tin về ngân sách nhà nước và nợ công, công bố những thông tin và chính sách chính xác: Nhằm quản lý tốt thâm hụt ngân sách cũng như nợ công, điều quan trọng đầu tiên cho mỗi quốc gia chính là thực hiện công khai minh bạch về những vấn đề này. Những nguyên tắc chủ đạo nhằm giúp các quốc gia thực hiện những chính sách cải thiện tính minh bạch trong quản lý tài khóa của mình được tóm tắt đầy đủ trong Cẩm nang Minh bạch Tài khóa (IMF, 2007). Việc Athens làm giả số liệu để có thể trở thành thành viên chính thức của khối cộng đồng chung châu Âu là bài học đối với Việt Nam. Vì thế, Chính phủ Việt Nam nên cung cấp những thông điệp phù hợp và giải thích rõ ràng những hỗ trợ cơ bản trong thỏa thuận với hoạt động quốc tế và tạo ra những tiêu chuẩn trong các chỉ số về nợ công, thâm hụt ngân sách và chính sách công khố. Đặc biệt, Chính phủ cũng cần đưa ra một khuôn khổ pháp luật rõ ràng và giao trách nhiệm cho một cơ quan chuyên trách. Cơ quan này thường là Bộ Tài chính, với vai trò lựa chọn các công cụ và hình thức vay nợ cần thiết, xây dựng chiến lược và lộ trình vay nợ hợp lý, nghiên cứu về các chiến lược quản lý nợ công bền vững thông qua các chỉ số về giới hạn nợ và các thông số về rủi ro, mà nợ công mang lại. Đồng thời, cơ quan này cũng cần thiết lập một bộ phận làm nhiệm vụ kiểm tra giám sát nhằm đưa ra được những con số thống kê cập nhật rõ ràng và xác thực. Cùng với đó, các điều khoản vay nợ đi kèm cũng cần được minh bạch và cập nhật đầy đủ. Theo IMF, việc thực hiện kiểm toán các hoạt động vay nợ hàng năm của chính phủ được giao cho một cơ quan độc lập nhằm nâng cao tính khách quan và minh bạch về những thông tin này. Mối quan hệ giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp công cũng c