Theo Viện Điều tra quy hoạch rừng (Bộ Lâm nghiệp), Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 1981, tập IV, trang 178,
cây Trầm là loài “ Cây gỗ lớn thường xanh, cao 15 – 25 mét,
đường kính 60 cm. Vỏ ngoài nhẵn, màu xám có vết nhăn dọc,
thịt vỏ màu trắng, có tơ mịn, dày 2 – 4 mm. Cành non phủ
lông mềm màu vàng xám.
8 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về Cây trầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cây trầm
Tên Việt Nam: Cây TRẦM HƯƠNG
Tên khác: Cây Gió, Trầm hương, Kỳ nam
Tên khoa học: Aquilaria crassna Pierre
Họ thực vật: Thymeleaceae
Tên thương phẩm: Santal wood
Đặc điểm sinh thái
Theo Viện Điều tra quy hoạch rừng (Bộ Lâm nghiệp), Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội năm 1981, tập IV, trang 178,
cây Trầm là loài “ Cây gỗ lớn thường xanh, cao 15 – 25 mét,
đường kính 60 cm. Vỏ ngoài nhẵn, màu xám có vết nhăn dọc,
thịt vỏ màu trắng, có tơ mịn, dày 2 – 4 mm. Cành non phủ
lông mềm màu vàng xám.
Lá đơn mọc cách, dai. Phiến lá hình mũi mác thuôn, dài 6 –
11cm, rộng 3 – 4cm, đỉnh có mũi nhọn, gốc hình nêm rộng,
mép nguyên mặt trên màu lục, mặt dưới màu xanh xám; gân
hình lông chim, nổi rõ ở mặt dưới, hợp lại ở mép. Cuống lá
dài 2 – 5 mm, có lông mềm.
Cụm hoa hình tán, có nhiều hoa. Hoa có cuống; đài hình
chuông màu trắng có 5 thùy và 10 vảy đính ở họng đài. Nhị
10, đính thành 2 hàng, chỉ nhị nhẵn đính ở gốc ống đài, trung
đới khá rộng, bầu hình trứng có lông dày, 2 ô. Quả mang
hình trứng ngược, dài 3 – 5cm, có lông xám dầy. Hạt chín
màu nâu đen.
Phân bổ địa lý – sinh thái
Trầm phân bố ở Việt nam, Lào, Ấn Độ . . . Ở Việt Nam đã
gặp Trầm ở Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bình Trị Thiên, Quảng
Nam Đà Nẳng, Gia Lai, Kom Tum . . .
Cây mọc trong các rừng ẩm nhiệt đới. Có thể gặp ở độ cao
1.000 mét, nhưng tập trung ở độ cao dưới 700m. Trầm là cây
chịu nóng, tái sinh tự nhiên tốt, ưa đất thịt pha cát tầng đất
dầy. Mùa hoa tháng 7 – 8. Quả chín tháng 9 – 10.
Giá trị kinh tế
Gỗ màu vàng nhạt, mặt cắt dọc màu trắng vàng, chất gỗ mềm
và nhẹ (tỷ trọng 0,395). Gỗ kém chịu mục và mọt nên ít được
sử dụng.
Cây cho loại nhựa quý là Trầm hương được dùng làm thuốc.
Vỏ có thể sản xuất sợi bông hoặc giấy đặc biệt. Ở tỉnh An
Giang, Cây Trầm hương phân bổ tự nhiên chủ yếu trên núi
Cấm thuộc huyện Tịnh Biên và núi Dài thuộc huyện Tri Tôn.
Thường mọc ở những nơi có độ ẩm cao, thích nghi với độ
cao khoảng trên 300 mét so với mặt nước biển. Hiện nay,
những cây lớn trong tự nhiên còn lại không bao nhiêu. Trong
những năm gần đây, nhờ có chương trình nghiên cứu của tổ
chức Rừng mưa nhiệt đới, đã cung cấp một số ít cây giống
cho nhân dân hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên trồng. Nhưng
do giá trị kinh tế rất cao của nhựa cây trầm, mà bà con nông
dân tự gây trồng, mạnh nhất bắt đầu từ năm 2003 đến nay.
Với hy vọng sẽ đổi đời bằng loài cây đẻ ra vàng.
Cây Trầm hương là loại cây rất dễ trồng, nhưng trong thiên
nhiên để có trầm thì đòi hỏi phải mất một thời gian dài và rất
dài, cụ thể thì cũng chưa biết chính xác là bao nhiêu năm để
tạo trầm. Trầm hương được hình thành từ nhựa cây, có mùi
thơm đặc biệt, là một trong những loại hương liệu đặc biệt
quý hiếm, chỉ có vua chúa mới dùng hoặc những người có
nhiều tiền mới dám sử dụng. Do hương thơm và công dụng
của nó, làm cho cây trầm trong thiên nhiên bị con người săn
lùng khai thác đến kiệt quệ.
Để giúp bà con có thêm thông tin về sản phẩm của cây trầm,
theo Tiến sĩ Lê Lương Đống: Trầm hương tính ôn, vị thơm,
cay; vào các kinh thận, tỳ, vị. Tác dụng: Ôn trung, giáng khí,
noãn (làm ấm) thận, tráng nguyên dương, giảm đau và an
thần; thường được dùng điều trị các chứng đau ngực, đau
bụng, nấc, nôn, hen suyễn, thận khí hư, bí tiểu tiện, nam giới
tinh lạnh. Đây là loại đặc sản quý hiếm của các vùng rừng
núi nhiệt đới thuộc Nam Á và Đông Nam Á. Trầm được
ngưng đọng trong thân, rễ hoặc cành cây trầm lâu năm
(khoảng trên 30 tuổi) theo những hình thể khác nhau. Cũng
có khi người ta tìm được trầm khi cây chết mục,mà trầm vẫn
tồn tại. Những nơi có trầm rục, sinh thái có những điểm khác
biệt do ảnh hưởng của trầm mà chỉ người tìm trầm có kinh
nghiệm mới nhận thấy được. Có loại “bắp” trầm gần như
nguyên chất (màu đen nhánh, hoặc gồ ghề như cánh chim
ưng, từ đó có tên gọi: Gỗ chim ưng (bois d’aigle); có loại chỉ
có ít nhựa nằm xen trong gỗ mà người ta quy ước trầm loại 1,
2, 3. Trầm được dùng chữa bệnh thường là loại trầm có hàm
lượng cao, trầm loại pha tạp nhiều gỗ, ít trầm thường được để
làm hương (nhang), khi đốt lên có hương vị đặc biệt và
quyến rũ, được các bậc vua chúa, quyền quý, giàu sang dùng
trong các dịp lễ tết, cúng giỗ.
Ngày nay, nguồn tài nguyên nhựa trầm trong thiên nhiên tại
An Giang đã biến mất, và trên thế giới cũng không còn
nhiều.Nhưng nhu cầu vẫn tiếp tục cần đến, và chưa có loại
nào khác để thay thế sự quyến rũ của mùi hương thơm của
trầm. Vì vậy, ngày càng có nhiều nhà khoa học đầu tư nghiên
cứu tạo trầm nhân tạo, bằng nhiều biện pháp kỹ thuật như
đưa hoá chất, hoặc đưa vật cứng vào thân cây gỗ .v.v., để tạo
sự tổn thương trên thân cây, nhằm kích thích quá trình tạo
nhựa trầm của cây. Thế nhưng, những nghiên cứu đó đã
thành công đến mức nào và biện pháp kỹ thuật nào tác động,
thời gian là bao nhiêu năm sẽ tạo được trầm, mỗi cây sẽ có
bao nhiêu nhựa trầm . . . thì vẫn còn trong vòng bí mật tuyệt
đối. Có thể nói là một bí quyết, không dễ gì biết được.
Những năm gần đây, không chỉ có tỉnh An Giang có gây
trồng cây trầm mà nhân dân ở một số tỉnh miền Trung cũng
tự trồng rất nhiều. Có nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc
tế về cây trầm. Có rất nhiều thông tin về giá cả mua, bán các
loại sản phẩm nhựa trầm. Song, tất cả hãy còn ở phía trước,
vẫn đang chờ đợi kết quả nghiên cứu tạo trầm nhân tạo, vẫn
tiếp tục nuôi hy vọng để chờ ngày cây sẽ đẻ ra vàng. Cuộc
sống của bà con nông dân trồng Trầm hương sẽ đổi đời trong
tương lai.
Bành Thanh Hùng, Chi cục Kiểm lâm An Giang (Theo
website Sở NN An Giang)