Câygỗlớn thường xanh, tán thưa,
cao 15-20(-30)m, đường kính đạt tới 40-60cm hay hơn. Thân thường thẳng, đôi
khi có rãnh dạng lòng máng; vỏmàu nâu
xám, nứt dọc nhẹ, dễbóc và tước ngược
từgốc lên. Cành mảnh, cong queo, màu
nâu nhạt, có lông hoặc nhẵn. Lá đơn mọc
so le; phiến lá hình trứng, bầu dục thuôn
đều hoặc mác thuôn, kích thước 5-12x2,5-9
cm,mỏng nhưgiấy hoặc dai nhưda, mặt
trên màu lục bóng, mặt dưới nhạt hơn và
có lông mịn, đầu nhọn hay thuôn nhọn và
tận cùng có mũi ngắn; gốc thon nhọn dần,
hình nêm; cuống lá ngắn, dài 4-6mm
7 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2169 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu về cây Trầm hương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRẦM HƯƠNG
Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte, 1914
Tên khác: Trầm, Dó bầu, Dó trầm
Họ: Trầm – Thymelaeaceae
Tên thương phẩm: Agar wood, Agar-wood oil, Malayan eaglewood
Hình thái
Trầm hương - Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte
1- Cành mang lá và hoa; 2- Quả
Cây gỗ lớn thường xanh, tán thưa,
cao 15-20(-30)m, đường kính đạt tới 40-
60cm hay hơn. Thân thường thẳng, đôi
khi có rãnh dạng lòng máng; vỏ màu nâu
xám, nứt dọc nhẹ, dễ bóc và tước ngược
từ gốc lên. Cành mảnh, cong queo, màu
nâu nhạt, có lông hoặc nhẵn. Lá đơn mọc
so le; phiến lá hình trứng, bầu dục thuôn
đều hoặc mác thuôn, kích thước 5-12x2,5-9
cm, mỏng như giấy hoặc dai như da, mặt
trên màu lục bóng, mặt dưới nhạt hơn và
có lông mịn, đầu nhọn hay thuôn nhọn và
tận cùng có mũi ngắn; gốc thon nhọn dần,
hình nêm; cuống lá ngắn, dài 4-6mm.
Cụm hoa dạng tán hoặc chùm tán,
mọc ở nách lá hoặc ở đầu cành; cuống
cụm hoa mảnh. Hoa nhỏ, đài hợp ở phần
dưới, hình chuông, màu vàng lục, trắng
nhạt hoặc vàng xám, có 5 thùy, cánh hoa
10, nhị 10; bầu hình trứng 2 ô, có lông
rậm, phía dưới có tuyến mật.
Quả nang gần hình trứng ngược hay hình quả lê, dài 4cm, đường kính 2,5-3cm, có lông
mềm, ngắn, có mang đài tồn tại, khi khô nứt thành 2 mảnh. Mỗi quả thường 1-2 hạt.
Các thông tin khác về thực vật
Chi Trầm (Aquilaria) trong Hệ Thực vật Việt Nam đã biết có 4 loài: Trầm hương – A.
crassna Pierre ex Lecomte; dó baillon – A. baillonii Pierre ex Lecomte, dó bana – A. banaensae
Phamhoang. (Phạm Hoàng Hộ, 1992; 2003) và dó quả nhăn – A. rugosa L.C. Kiet & Krbler (Lê
Công Kiệt et al, 2005). Các loài dó baillon (A. baillon), dó bana (A. banaensae) và dó quả nhăn
(A. rugosa) đều là đặc hữu. Hai loài dó baillon, dó bana đều mới gặp phân bố ở một vài nơi
thuộc Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế và Quảng Nam. Còn loài dó quả nhăn (A. rugosa) mới được
phát hiện tại Kon Tum. Theo dự đoán của nhiều nhà thực vật, ở Việt Nam có thể phát hiện
thêm 2 loài nữa thuộc chi Trầm hương. Đó là loài trầm hương trung quốc – A. chinensis (Lour.)
Sprengel ở các tỉnh phía Bắc và loài trầm hương indonesia – A. malaccensis Lamk. ở các tỉnh
phía Nam. Song đến nay, những nghiên cứu về các mặt sinh học (phân loại, sinh thái), hoá
học (tinh dầu và thành phần hoá học của tinh dầu) cũng như quá trình sinh tổng hợp tạo khối
trầm trong cây đối với các loài trong chi Trầm (Aquilaria) ở nước ta hiện còn quá ít.
Phân bố của trầm hương
ở Việt Nam
Nguồn trầm hương hiện có trên thị trường thế giới chủ
yếu vẫn chỉ được khai thác từ 3 loài Trầm: Aquilaria
malaccensis Lamk (từ Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia,
Myanma), Aquilaria crassna (từ Việt Nam, Lào, Campuchia)
và Aquilaria sinensis (Lour.) Sprengel. (từ Trung Quốc). Cả 3
loài đều có nhiều đặc điểm rất giống nhau.
Phân bố
Việt Nam:
Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hoà Bình,
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên-Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Gia Lai, Đắk
Lắk, Đắk Nông, Phú Yên, Bình Định, Khánh Hoà, An Giang,
Kiên Giang. Ba khu vực nhiều trầm hương nhất là Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, An Giang
và Kiên Giang (đảo Phú Quốc).
Hiện nay các cá thể trưởng thành của trầm hương cơ
bản bị tuyệt diệt trong tự nhiên. Nhưng diện tích rừng trồng
ngày một tăng, tới năm 2005 tổng diện tích rừng trồng trầm
trong cả nước đã vào khoảng 6.000 ha. Riêng tỉnh Hà Tĩnh là
2.732 ha và huyện Hương Khê 336 ha (Chi cục phát triển
Lâm nghiệp Hà Tĩnh).
Thể giới:
Lào và Campuchia.
Đặc điểm sinh học
Trầm hương phân bố rải rác trong các loại hình rừ nguyên
sinh hoặc thứ sinh, trên đỉnh núi, ở sườn núi hoặc trên .200)m
(so với mặt biển). Chúng thường mọc ở các sườn núi t. Trầm
hương thường mọc cùng với các loài cây gỗ lớn nh arrietia
javanica), gụ mật (Sindora siamensis ) Đôi khi còn g g rừng
thứ sinh cùng với các loài như thanh thất (Ailanthus tocarya
metcalfiana), bưởi bung (Acronychia pedunculata), m g ràng
(Ormosia spp.) Nhiệt độ không khí trung bình hàng mưa từ
1.500 đến 2.500mm/năm là rất phù hợp với sinh trưởng,
Cây ưa đất feralitic điển hình, đất feralitic trên núi ph granit;
với lớp đất mặt mỏng hoặc trung bình, hơi ẩm, chua hoặ
Mùa hoa tháng 4-5, quả chín vào tháng 7-8.
Trầm hương sinh trưởng, phát triển tương đối nhan t ở giai
đoạn 5-8 tuổi đã đạt chiều cao 4-6m, với đường kính th cây bắt
đầu ra hoa, kết quả.
Các khối trầm (“bắp trầm”) thường được hình thàn ng gốc
hoặc trong rễ. Về nguyên nhân và diễn biến của quá trìn n là vấn ng thường xanh, ẩm nhiệt đới,
đất bằng, có độ cao 50-1.000(-1
có độ dốc nhỏ và thoát nước tố
ư sao (Hopea spp.), huỳnh (T
ặp trầm hương sinh trưởng tron
triphysa), mò lưng bạc (Cryp
ít nài (Artocarpus spp.), ràn
năm 20-280C với tổng lượng
phát triển của trầm hương.
ong hoá từ đá kết, đá phiến hay
c gần trung tính (pH 4-6).
h, các cá thể nhân giống từ hạ
ân 20-30cm. Ở độ tuổi 4-6 năm
h trong thân, trong cành lớn, tro
h tạo trầm ở trong cây hiện vẫ
đề bí ẩn, cần phải được nghiên cứu để lý giải. Đến nay đã có nhiều giả thiết khác nhau về vấn
đề này. Nhiều ý kiến cho rằng trầm được tạo thành chính là kết quả của một quá trình sinh tổng
hợp, chuyển hoá của các hoạt động bệnh lý ở những nơi bị bệnh, bị thương trên cây. Nấm và
côn trùng đục thân cây là những nguyên nhân quan trọng trong các hoạt động đó. Có giả thiết
cho rằng, trước tiên cây bị nấm gây bệnh tại những chỗ bị thương làm cho cây bị suy yếu, tiếp
đó nấm thâm nhập vào cây và tạo ra trầm. Song diễn biến của các quá trình đó ra sao, nhựa
trầm là sản phẩm được tạo ra do nấm hay từ cây; mối quan hệ giữa chúng với các hoạt động
sinh tổng hợp tạo thành khối trầm thế nào, hiện vẫn còn là vấn đề cần được nghiên cứu để làm
sáng tỏ.
Những thông tin gần đây cho biết, đã xác định được nấm Cytosphaera mangiferae có trong
trầm của loài Aquilaria malaccensis và nấm Melanotus flavolives có trong khối trầm của loài
Aquilaria sinensis.
Công dụng
Thành phần hoá học:
Tinh dầu trầm hương là chất lỏng sánh, nhớt, dẻo có màu vàng, vàng nâu hoặc màu đỏ hổ
phách đậm và mùi thơm dịu của trầm.
Một số kết quả phân tích đã có cho biết, thành phần chủ yếu của tinh dầu trầm hương là
các hợp chất agarofuranoid, sesquiterpenoid của các eudesman, eremophilan, valencan và
vetispiran. Theo Ishihara M. và cộng sự (1993) thành phần chủ yếu của tinh dầu tách từ loại
trầm tốt nhất của loài trầm hương indonesia (A. malaccensis Lamk.) rất phức tạp, hiện mới xác
định được khoảng trên 33 hợp chất. Trong đó nhiều nhất là 2-(2-(4-methoxyphenyl) ethyl)
chromon (27%); 2-(2-phenylethyl) chromon (15,0%); oxoagarospirol (5,0%); 9,11-
eremophiladien-8-on (3,0%); 6-methoxy-2(2-(4-methoxyphenyl) ethyl) chromon (2,5%); guaia-
1(10),11-dien-15-al (1,5%); selina-3,11-dien-9-ol (1,5%); kusunol (1,4%); selina-2,11-dien-14-ol
(1,0%); guaia-1(10),11-dien-15-oic acid (1,0%); selina-3,11-dien-9-on (0,8%); jinkoh-eremol
(0,7%); selina-4, 11-dien-14-al (0,7%); dihydrokaranon (0,7%); selina-3,11-dien-14-al (0,6%); 2-
hydroxyguaia-1(10),11-dien-15-oic acid (0,4%); β-agarofuran (0,4%) và nhiều hợp chất khác với
hàm lượng nhỏ. Cũng còn hàng loạt các hợp chất có trong tinh dầu trầm, hiện vẫn chưa xác
định được cấu trúc hoá học (chiếm khoảng 30% hàm lượng trong tinh dầu).
Từ những hợp chất đã biết, ta có thể nhận xét rằng, các sesquiterpen oxy hoá và các dẫn
xuất chromon là những thành phần chủ yếu trong tinh dầu.
Công dụng:
Trầm là loại sản phẩm đặc biệt được dùng làm hương thắp và rất được coi trọng trong
công việc cúng lễ của các tín đồ đạo Phật, đạo Hồi, đạo Hin đu ở khắp các nước thuộc khu
vực Nam Á, Đông Nam Á và Đông Á. Tại Thái Lan, Ấn Độ trầm được sử dụng khi hoả táng thi
hài của những người quyền quý. Còn ở Nhật Bản, hương trầm lại có giá trị đặc biệt trong các
dịp lễ hội “uống trà”.
Tinh dầu trầm là chất định lượng có giá trị đặc biệt trong công nghệ chế biến các loại
hương liệu, các loại nước hoa cao cấp, sang trọng, đắt tiền. Các hoá mỹ phẩm chứa tinh dầu
trầm được ưa chuộng đặc biệt trong giới thượng lưu tại khu vực Trung Đông và Nam Á.
Trong y học cổ truyền ở nước ta cũng như tại Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ trầm được
coi là vị thuốc quý hiếm, dùng chữa trị các chứng bệnh đau ngực, hen suyễn, khó thở, cảm,
đau bụng, lợi tiểu, giảm đau, bổ huyết, trợ tim, thấp khớp và đặc biệt là một số dạng ung thư
(nhất là với ung thư tuyến giáp trạng)
Gỗ thường xốp, nhẹ, tỷ trọng khoảng 400kg/m3 có thể dùng đóng đồ gỗ gia dụng, làm
nguyên liệu trong công nghiệp gỗ dán.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Nhân giống:
Trầm hương được nhân giống chủ yếu từ hạt. Cần chọn giống từ những cây mẹ trên 12
tuổi, sinh trưởng tốt, tán đều, không bị sâu bệnh; tốt nhất là cây trong rừng giống chuyên hoá.
Quả chín sau khi thu hái về cần ủ qua 2-3 ngày cho chín đều rồi đem phơi trong bóng mát hoặc
nắng nhẹ, sau đó vài ngày vỏ sẽ nứt và hạt rơi ra. Mỗi quả thường chỉ có 1 hạt. Cây giống với
kích thước trung bình có thể cho khoảng 2.000 hạt/năm. Hạt trầm hương mất sức nẩy mầm rất
nhanh, nên cần được gieo ngay sau khi thu hái. Hạt gieo khi còn tươi thường có tỷ lệ nẩy mầm
tương đối cao (60-70%). Nếu qua thời gian bảo quản, tỷ lệ hạt nẩy mầm sẽ giảm xuống nhanh
chóng. Khoảng 10-12 ngày sau khi gieo, hạt đã bắt đầu nẩy mầm. Tuy vậy thời gian nẩy mầm
của hạt vẫn có thể chậm hơn, đôi khi tới trên 1 tháng. Ở giai đoạn vườn ươm, cây con cần
được che bóng và giữ ẩm. Dưới 2 tháng tuổi, cây con cần che bóng 50-60%. Từ tháng 3-5 che
bóng 30-40%. Sau 5 tháng dỡ bỏ dần giàn che. Khi cây con được 40-45 ngày tuổi, cao 6-8cm,
có 2-4 lá mầm là có thể đem cấy trong các bầu đất. Bầu đất có thể làm bằng các túi polyethylen
có lỗ thủng ở đáy hoặc trên thành hay các rọ mảnh đan bằng tre nứa; đất trong bầu cần tơi,
xốp, đủ dinh dưỡng và sạch bệnh (ruột bầu gồm 85% đất trộn với 14% phân chuồng đã ủ và
1% supe lân theo khối lượng).
Thời gian đầu cần làm sạch cỏ, giữ đất đủ ẩm và định kỳ 4-5 ngày phun dung dịch benlát
0,5%, lượng phun 1-1,2l/m2 để phòng trừ nấm.
Trần Văn Minh, Bùi Thị Tường Thu, Đinh Trung Chánh và Bùi Cách Tuyên (1998) đã thử
nghiệm nhân giống 4 dòng trầm hương đang tạo trầm kỳ tại đảo Phú Quốc bằng biện pháp nuôi
cấy đỉnh sinh trưởng và đã thu được một số kết quả bước đầu.
Gần đây, những nghiên cứu thực nghiệm về sinh trưởng, phát triển của chồi in vitro
(Nguyễn Thị Hiền, Vũ Văn Vụ, 2005), về kỹ thuật nuôi cấy phôi giả (Đinh Trung Chánh, Trần
Văn Minh, 2005), về ứng dụng công nghệ phôi soma (Trần Văn Minh, Bùi Thị Tường Thu,
2005) trong công tác phục tráng và nhân nhanh giống trầm đã thu được một số kết quả bước
đầu và mở ra nhiều triển vọng sáng sủa.
Trồng và chăm sóc:
Giai đoạn trên 12 tháng tuổi, có thể đưa cây con ra trồng. Tiêu chuẩn cây con: Trên 12
tháng. Cao trên 40cm, đường kính cổ rễ trên 0,35cm. Sinh trưởng tốt, cân đối, thân thẳng,
không bị sâu bệnh. Cây con trong bầu đất với bộ rễ phát triển, nguyên vẹn sẽ đạt tỷ lệ sống rất
cao. Nên trồng vào mùa xuân (ở các tỉnh phía Bắc) hoặc đầu mùa mưa (ở các tỉnh phía Nam).
Tuỳ thuộc vào từng loại đất đai và điều kiện sinh thái cụ thể mà có thể chọn lựa các mật độ
trồng dày hoặc thưa. Có thể trồng theo các khoảng cách 2,5x2,5m, 2,5x3,0m hoặc 2x5m,
2x6m (mật độ 400-500 cây/ha).
Phát dọn thực bì theo băng rộng bằng 1/3-1/2 chiều cao của rừng, băng chặt tốt nhất theo
hướng Đông – Tây; nơi dốc theo đường đồng mức. Làm đất cục bộ, đào hố có kích thước
40x10x10cm, bón lót 0,25-0,30kg hỗn hợp phân (theo tỷ lệ 2 đạm, 1 lân, 1 kali) cho mối hố.
Trước khi trồng cần xé bỏ vỏ bầu, moi đất, đặt bầu ngay ngắn, lấp đất vụn và lèn chặt, vun đất
quanh gốc cây cao hơn mặt đất 4-5cm.
Chăm sóc năm đầu 1-2 lần, năm thứ 2-3 mỗi năm 3 lần, năm thứ 4 đến khi cây khi khép
tán mỗi năm chỉ cần làm cỏ và vun xới đất quan gốc 1 lần. Chú ý trồng dặm cây chết ngay từ
lần chăm sóc đầu tiên của năm thứ nhất. Năm thứ 2 đến năm thứ 3 cần bón thúc mỗi năm 1 lần
(50g hỗn hợp 2 đạm + 1 lân + 1 kali cho mỗi gốc), bón theo rạch sâu 5-10cm xung quanh và
cách gốc 40-50cm, lấp kín rạch sau khi bón. Đến giai đoạn cây khép tán cần tỉa thưa dần để
đảm bảo đủ điều kiện dinh dưỡng, tạo độ thông thoáng và chế độ ánh sáng thích hợp cho rừng
trồng.
Trong rừng tự nhiên, để tạo điều kiện cho trầm hương phục hồi và sinh trưởng; ta nên
trồng dặm bổ sung thêm cây con ở các độ tuổi khác nhau; đồng thời phát quang loại bỏ dây leo
và cây bụi.
Hiện chưa có thông tin gì về tình hình sâu bệnh hại ở trầm hương.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Trong tự nhiên thường chỉ gặp trầm ở một số rất ít cá thể già hoặc bị bệnh. Theo kinh
nghiệm của một số người chuyên đi tìm kiếm, khai thác trầm ở các tỉnh miền Trung nước ta,
trầm có thể có trong những cây trầm hương già, lâu năm (ước tính phải trên 30 năm tuổi), thân
cong queo, sinh trưởng yếu ớt, ngọn sinh trưởng chậm lại, vỏ thân không nhẵn, có nhiều u
bướu và thường có các loại kiến đen hay kiến nâu. Ngoài ra còn thấy hiện tượng khác nữa là lá
thường có màu xanh lá mạ hay hơi vàng.
Sau khi chặt hạ, người ta cưa cắt, đục đẽo, vạc bỏ gỗ ở phía ngoài chỉ chọn lấy các mẩu
trầm hoặc các u bướu. Các thỏi trầm khai thác từ những cây đang sống thường có màu nâu
bóng và thường có giá trị cao, được gọi là “trầm sinh”. Còn các thỏi trầm lấy ở các thân cây
hoặc gốc rễ của những cây đã chết từ lâu thường có màu cánh gián hay đen xỉn, được gọi là
“trầm rục”.
Giữa 2 loại, thì “trầm rục” có chất lượng thấp hơn.
Tới nay, người ta đã đưa ra một số phương pháp tạo trầm như dùng chế phẩm vi sinh
hoặc dùng hoá chất để bôi vào các lỗ khoan nhân tạo trên thân cây hoặc cành. Sau 1-2 năm,
quanh vết thương sẽ hình thành dạng “trầm tóc’’. Loại này chỉ dùng cất tinh dầu làm hương
hoặc làm ‘’cây trầm cảnh’’. Cần tiếp tục nghiên cứu và theo dõi để có kết luận đối với các
phương pháp tạo trầm này.
Trên thị trường, thường mua bán trầm nguyên liệu ở dạng nguyên cả khối hoặc cả miếng
sau khi đã chọn lọc và phân loại theo chất lượng. Các thỏi trầm thường cứng, nặng, ròn, trong
có chứa nhựa dầu màu nâu đậm hoặc đen. Tùy thuộc vào chất lượng, trong thương mại người
ta thường chia trầm làm 8-9 loại. Loại cao nhất (từ loại 1 đến loại 3) có màu nâu đen được gọi
là “kỳ nam”. Các loại 7,8,9 là thấp nhất và có chất lượng kém.
Để chưng cất, tách chiết tinh dầu, người ta thường chỉ sử dụng các mẩu trầm vụn, mùn
cưa hoặc các loại trầm lẫn tạp chất có chất lượng thấp. Tinh dầu trầm là chất lỏng, sánh, nhớt
có màu vàng hoặc màu hổ phách đậm với hương thơm dịu của trầm. Các thành phần chính
của tinh dầu trầm thường bốc hơi ở nhiệt độ cao (khoảng 2000C), nên việc chưng cất tinh dầu
trầm cần có các thiết bị áp lực hoặc hoà tan trong các dung môi thích hợp, với công nghệ và
quy trình đặc biệt.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Trầm là sản vật đặc biệt của tự nhiên, được coi là mặt hàng quý hiếm và có giá trị rất cao
trên thị trường thế giới. Giá mua bán trầm tuỳ thuộc vào từng loại trầm cũng như chất lượng
của chúng và được tính theo kg. Loại đặc biệt (kỳ nam) có giá mua bán khoảng 7.000-10.000
USD/kg. Các loại trầm bình thường có giá thấp hơn, cũng trong khoảng 2.500-4.500 USD/kg.
Trên thị trường Anh, tinh dầu trầm thương phẩm được mua bán với giá 160 Bảng Anh/2,5ml
(tương đương 64.000 Bảng Anh/kg hoặc gần 100.000 USD/kg). Mặc dù các số liệu thống kê
còn chưa đầy đủ, song sơ bộ có thể thấy trong khoảng 10 năm (1980-1990) khối lượng trầm
các loại đã được khai thác và xuất khẩu từ Việt Nam đã vào khoảng trên 300 tấn. Trong đó có
tới 2.000kg trầm loại 1-3 (kỳ nam), số trầm còn lại thuộc về các loại 4-9. Chỉ riêng tỉnh Quảng
Nam, khối lượng trầm bị khai thác hàng năm cũng ước khoảng 300kg. Hương Khê (Hà Tĩnh)
được mệnh danh là một trong những ‘’rốn’’ trầm của Việt Nam, thời kỳ đỉnh điểm (1984-1990)
có lúc cả huyện khai thác được tới 80 tấn trầm các loại (theo Đặng Hữu Liên, Giám đốc Ban
Quản lý rừng phòng hộ, Ngàn sâu – Báo Tiền phong 10/7/2006).
Do bị khai kiệt quệ, nên trầm hương đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1996).
Thấy được giá trị to lớn của trầm, nên từ hàng chục năm lại đây trầm hương đã được đưa
vào gây trồng khá nhiều, đặc biệt là tại các tỉnh Quảng Nam, Kon Tum, Kiên Giang, Hà Tĩnh.
Tại xã Phúc Trạch (Hương Khê – Hà Tĩnh) hầu như gia đình nào cũng trồng từ vài chục
đến hàng trăm cây trầm hương với nhiều độ tuổi khác nhau. Theo giá thị trường ở thời điểm
tháng 7/2006 cây giống có chiều cao 40cm được bán khoảng 1.000 đồng/cây. Còn những cây
6-7 tuổi (có khả năng cho trầm) có giá tới 7-10 triệu đồng/cây. Cây càng nhiểu tuổi giá càng
cao.
Diện tích trồng trầm hương của cả nước hiện đã có khoảng trên 6.000ha.
Một số kết quả nghiên cứu bước đầu về khả năng tạo trầm cũng đã mở ra nhiều triển vọng
trong tương lai.
Việc đưa loài trầm hương (A. crassna) vào cơ cấu cây trồng rừng trong chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng, đồng thời với việc nghiên cứu các cơ sở khoa học để chọn tạo giống tốt và
chủ động điều khiển các quá trình tạo trầm trong cây sẽ góp phần đưa trầm trở thành một mặt
hàng LSNG có giá trị cao của Việt Nam trong tương lai.
Tài liệu tham khảo chính
1. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường (1996). Sách Đỏ Việt Nam – Phần Thực vật – Tập 2. Tr. 49-50. Nxb
Khoa học và Kỹ thuật – Hà Nội; 2. Dương Tấn Phước, Trần Mỹ Lý và cộng sự (1990). Một số khía cạnh về kinh tế của
Chương trình phát triển tinh dầu, dầu béo, hương liệu, mỹ phẩm. Thông tin kinh tế, khoa học kỹ thuật No 7+8: Tr. 29-
31; 3. Đinh Trung Chánh, Trần Văn Minh (2005). Nghiên cứu kỹ thuật nuôi cấy phôi giả trong nhân nhanh cây trầm
hương (Aquilaria crassna Pierre ex Lecomte). Những vấn đề nghiên cứu có bản trong khoa học sự sống. Tr. 415-417.
Nxb Khoa học và kỹ thuật – Hà Nội; 4. Đỗ Huy Bích và đồng nghiệp (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt
Nam. Tập II. Tr. 1002-1005. Nxb Khoa học và kỹ thuật – Hà Nội; 5. Lã Đình Mỡi (2001). Cây trầm hương – Aquilaria
crassna Pierre ex Lecomte. Tài nguyên Thực vật có tinh dầu ở Việt Nam. Tập I (Lã Đình Mỡi – Chủ biên). Tr. 286-294.
Nxb Nông nghiệp – Hà Nội; 6. Nguyễn Thị Hiền, Vũ Văn Vụ (2005). Sự sinh trưởng và phát triển của chồi in vitro cây dó
trầm (Aquilaria crassna Pierre) trong môi trường nuôi cấy. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống.
Tr. 521-523. Nxb Khoa học và kỹ thuật – Hà Nội; 7. Trần Văn Minh, Bùi Thị Tường Thu, Đinh Trung Chanh, Bùi Cách
Tuyến, 1998. Nhân giống cây trầm qua nuôi cấy đỉnh sinh trưởng. Tạp chí Lâm nghiệp số 4. Tr. 44; 8. Trần Văn Minh,
Bùi Thị Tường Thu (2005). Ứng dụng công nghệ phôi soma trong công tác giống cây trầm hương (Aquilaria crassna
Pierre ex Lecomte). Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học sự sống. Tr. 542-544. Nxb Khoa học và kỹ thuật
– Hà Nội; 9. Triệu Văn Hùng (Chủ biên) (2002). Kỹ thuật trồng một số loại cây đặc sản rừng. Tr. 128-135. Nxb Nông
nghiệp – Hà Nội; 10. Chung, R, C. K. & Purwaningsh (1999). Aquilaria malaccensis Lamk. In: L. P. A. Oyen and Nguyen
Xuan Dung (Editors): Plant Resources of South-East Asia 19 – Essential-oil plants, pp. 64-67. Backhuys Publishers,
Leiden; 11. Ishihara, M., Tsuneya, T. & Uneyama, K. (1993). Components of the volatile concentrate of agarwood.
Journal of Essential Oil Research, 5: 283-289; 12. Ishihara, M., Tsuneya, T. & Uneyama, K. (1993). Components of the
agarwood smoke on heating. Journal of Essential Oil Research, 5: 419-423; 13. Lê Công Kiet, Paul, J.A. Kebler &
Marcel Eurlings (2005). A new species of Aquilaria (Thymeleaceae) from Vietnam. Blumea 50 (2005): 135-141.
Universiteit Leiden; 14. Lok, E. H., Ahmad Zuhaidi, Y. (1996). The growth performance of plantation grown Aquilaria
malaccensis in Peninsular Malaysia. Journal of Tropical Forest Science, 8: 573-575; 15. Qi Shu – Yuan (1995).
Aquilaria species in vitro culture and the production of eaglewood (agarwood). In: Bajaj, Y. P. S. (Editor). Biotech