Sau cuộc suy thoáI kinh tếnăm 1920-1921, cục dựtrữliên bang Mĩ -NHTW (viết
tắt là FED) thi ếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trước đó của FED chủyếu thu từ
nghiệpvụchiết khấu, nhưng do hậu quảcủa cuộc khủng hoảng kinh tếđã làm lượng tiền
vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới gi ảm nguồn thu. FED bí tiền đành buôn bán chứng khoán
kiếm lãi đểti ếp tục hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua chứng khoán, bỗng nhiên
các nhà điều hành thị trường tiền tệphát hiện thấy dựtrữtrong các ngân hàng tăng lên còn
các khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quảnày được FED rút ra một bài học
bổích từthực tếvô tình là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thểlàm thay đổi cơ sốti ền
tệnhạy bén nhất. Thuật ngữ“thị trường mở” lần đầu tiên xuất hiện ởMỹvào những năm
20 của thếkỷXX khi nghiệp vụnày bắt đầu được thi hành. Các nghiệp vụcủa ngân hàng
trung ương Mỹvềthị trường mởso với các công cụkhác có phạm virộng nhất vì nước này
có thị trường giấy tờcó giá lớn nhất . ỞAnh nghiệp vụTTM đóng vai trò quan trọng từ
những năm 30. Ngân hàng Raykh Đức bắt đầu thi hành chính sách tiền tệtừnăm 1933.
28 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1895 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về Nghiệp vụ thị trường mở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG MỞ
1. Khái niệm chung về nghiệp vụ thị trường mở
Sau cuộc suy thoáI kinh tế năm 1920-1921, cục dự trữ liên bang Mĩ-NHTW (viết
tắt là FED) thiếu vốn nghiêm trọng, nguồn thu nhập trước đó của FED chủ yếu thu từ
nghiệp vụ chiết khấu, nhưng do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế đã làm lượng tiền
vay chiết khấu giảm sút, dẫn tới giảm nguồn thu. FED bí tiền đành buôn bán chứng khoán
kiếm lãi để tiếp tục hoạt động của mình. Trong khi thực hiện mua chứng khoán, bỗng nhiên
các nhà điều hành thị trường tiền tệ phát hiện thấy dự trữ trong các ngân hàng tăng lên còn
các khoản cho vay và tiền gửi tăng lên gấp bội. Kết quả này được FED rút ra một bài học
bổ ích từ thực tế vô tình là việc mua bán chứng khoán sinh lãi có thể làm thay đổi cơ số tiền
tệ nhạy bén nhất. Thuật ngữ “thị trường mở” lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào những năm
20 của thế kỷ XX khi nghiệp vụ này bắt đầu được thi hành. Các nghiệp vụ của ngân hàng
trung ương Mỹ về thị trường mở so với các công cụ khác có phạm vi rộng nhất vì nước này
có thị trường giấy tờ có giá lớn nhất . Ở Anh nghiệp vụ TTM đóng vai trò quan trọng từ
những năm 30. Ngân hàng Raykh Đức bắt đầu thi hành chính sách tiền tệ từ năm 1933.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là gì ? Mặc dù khái niệm TTM đã
được chúng ta tiếp cận từ thời kỳ đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay,
song để trả lưòi câu hỏi này vẫn không ít người mơ hồ. Để trả lời câu hỏi trên
hãy tiếp cận với một số quan điểm vể NVTTM như sau:
Theo quan điểm của nước Anh: “NVTTM là việc NHTW mua bán trái phiếu dài
hạn của Chính phủ trên thị trường trái phiếu có bảo đảm để làm tăng hoặc giảm mức cho
vay của ngân hàng. Khi mua trên thị trường mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân và
tổ chức đã bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện
trên thị trường tín phiếu. Nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu
thương mại để tác động đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”.
Theo quan điểm của Mỹ: “ NVTTM là việc mua và bán các loại chứng khoán trên
thị trường tài chính được thực hiện bởi FED “
Theo tài liệu ở trường đại học VICTORIA NEWREALAND: “ Một NVTTM xảy ra
khi NHTW thay đổi cơ số tiền tệ bằng việc mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường mở”
Theo các quan điểm trên thì TTM là thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn
hạn và dài hạn. Tuỳ vào mỗi nước mà các loại chứng khoán được giao dịch là khác nhau về
loại hình và thời hạn đồng thời việc quyết định chủ thể tham gia rộng hơn gồm các tổ chức
tín dụng, tổ chức phi tín dụng, doanh nghiệp và cả cá nhân… Còn ở các nước NVTTM còn
chưa phát triển thì mới chỉ có các NVTTM và các tổ chức tín dụng khác tham gia ( ví dụ ở
Việt Nam). Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi nước mà chính phủ sẽ quy định khác
nhau về hàng hoá, chủ thể tham gia, quy chế hoạt động của TTM. Chính sự khác nhau này
sẽ quyết định khái niệm NVTTM ở mỗi nước.
Ví dụ: Đối với điều kiện hiện tại của Việt Nam
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành CSTT, TTM ở Việt Nam
đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 12/07/2000, đánh dấu một bước phát
triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTW theo phương pháp gián
tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển nền kinh tế đất nước.
Do vậy đây là công cụ rất mới cả về khái niệm và nội dung hoạt động. Trong
điều kiện của Việt Nam , NVTTM được hiểu như sau:
“NVTTM là nghiệp vụ NHTW thực hiện mua và bán ra các loại giấy tờ có giá ngắn
hạn nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất
ngắn hạn” ( “Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ưng - Đại học KTQD” )
Theo điều 8, quyết định số 85/200/QĐ -NHNN14 ngày 9/3/2000 của
Thống Đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành quy chế NVTTM, có
quy định giấy tờ có giá được giao dịch gồm:
+ Tín phiếu kho Bạc
+ Tín phiếu NHTW
+ Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do Thống Đốc NHNN quy
định cụ thể trong từng thời kỳ
Quy định trên cho thấy trong từng thời kỳ cụ thể, các loại giấy tờ có giá được sử
dụng trong NVTTM ở nước ta có thể tăng thêm ngoài tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân
hàng nhưng vẫn là giấy tờ có giá ngắn hạn.
Tóm lại thì “ NVTTM là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTW mà nội
dung cụ thể của nó là mua vào và bán ra các loại chứng khoán – các loại
chứng khoán này không bị giới hạn về thời hạn trên TTM, thông qua đó
NHTW tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng và gián tiếp tới lãi suất thị
trường”
Do tính chất thời hạn của công cụ sử dụng trong NVTTM nên NVTTM không chỉ
được thực hiện trên thị trường tiền tệ ( thị trường của các công cụ tài chính ngắn hạn) mà
còn được thực hiện trên cả thị trường vốn (thị trường của các công cụ tài chính dài hạn)
hay nói cách khác là được thực hiện thị trường tài chính.
Trong khái niệm này cũng không có thời hạn về chủ thể tham gia TTM là cá nhân
hay tổ chức. Vì bất kỳ đối tượng mà NHTW mua hoặc bán là ai thì NHTW vẫn thực hiện
được chính sách tiền tệ (CSTT) tác động đến cơ số tiền tệ làm tăng giảm lượng tiền cung
ứng trong nền kinh tế , mà cụ thể hoạt động của nó được hình trình bày ở phần tiếp theo.
2. Hàng hoá và chủ thể tham gia NVTTM
2.1.Hàng hoá
2.1.1.Phạm vi hàng hoá được giao dịch trên TTM
Về nguyên tắc, mọi tài sản có thể mua bán trên TTM vì chúng đều là tài sản thế
chấp. Tuy nhiên, khác với tái cấp vốn thông qua hình thức cho vay có đảm bảo ở chỗ tài
sản thế chấp trên NVTTM phải là tài sản có khả năng thanh khoản cao (tức khả năng
chuyển sang tiền mặt của tài sản) đảm bảo quản lý dễ dàng đồng thời đáp ứng yêu cầu điều
hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn. Tài sản hội đủ các
điều kiện như vậy chỉ có thể là công cụ tài chính thuật ngữ gọi là giấy tờ có giá được sử
dụng trên NVTTM mỗi nước có thời hạn là khác nhau.
2.1.2. Một số hàng hoá được giao dịch trên TTM ở Việt Nam
Theo điều 8, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 các loại giấy tờ có
giá được giao dịch thông qua TTM gồm:
1. Tín phiếu kho bạc
2. Tín phiếu ngân hàng Nhà nước
3. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn do Thống đốc NHNN quy định cụ thể
trong từng thời kì.
Như vậy hiện nay chỉ có giấy tờ có giá ngắn hạn mới được sử dụng để
giao dịch trên TTM . Thực tế đó ở Việt Nam và một số nước khác là do thị
trường tài chính chưa phát triển nên NVTTM chưa có khả năng sử dụng các
giấy tờ có giá dài hạn làm công cụ của mình. Về lâu dài, khi điều kiện pháp lý
cho phép phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ gồm các loại
ngắn hạn mà các loại trung và dài hạn có thể xem xét làm công cụ giao dịch,
với điều kiện công cụ đó có khả năng thanh khoản cao.
Vì sao nói giấy tờ có giá trung và dài hạn sẽ được sử dụng trên TTM khi
điều kiện cho phép ? Ta biết rằng hành vi mua vào và bán ra giấy tờ có giá là
hoạt động thường xuyên trên TTM. Lúc này mua vào thì lúc khác bán ra, thậm
chí NHTW có thể thực hiện hành vi mua lại ngay lập tức sau khi hành vi bán
được thực hiện nếu phát hiện ra mình đã mua quá nhiều và vì vậy đã đưa tiền
vào lưu thông quá mức cần thiết. Và ngược lại thay hành vi bán bằng hành vi
mua khi cảm thấy sự “ ngột ngạt, nghẽn tắc” của hoạt động kinh tế vì không
đủ cần thiết trong lưu thông mà nguyên nhân do NHTW bán ra một số lượng
giấy tờ có giá quá lớn. Chính vì hành vi mua bán trao đổi thường xuyên các
giấy tờ có giá tạo ra khả năng kết nối nhiều nguồn vốn ngắn hạn thành vốn
trung và dài hạn để thoả mãn nhu cầu của chủ thể kinh tế trên thị trường vốn.
Một nền kinh tế có thị trường chứng khoán, có thị trường tài chính phát triển
thì tính chất dài à hạn của nguồn vốn chỉ tồn tại ở phía người phát hành mà
bản chất nguồn vốn dài hạn này là một chuỗi các nguồn ngắn hạn tạo thành.
Chúng ta không e ngại khi mua chứng khoán trung và dài hạn thì vốn sẽ bị
đọng lại một chỗ. Thời hạn của giấy tờ có giá sẽ không mâu thuẫn với yêu
cầu nhanh nhạy của CSTT vì đã có phương thức giao dịch theo hợp đồng mua
lại trên TTM xử lý một cách thích hợp.
Như vậy có thể nói phạm vi hàng hoá trên TTM là không bị giới hạn. ở
Việt Nam và các nước khác cũng không nằm ngoài quy luật chung. Khi thị
trường tài chính phát triển thì giấy tờ có giá có giá trung và dài hạn sẽ được
sử dụng làm công cụ của NVTTM ở Việt Nam.
2.2. Chủ thể tham gia NVTTM
2.2.1. Phạm vi thành viên tham gia NVTTM
Chủ thể tham gia NVTTM rất đa dạng và phong phú. Tuy vậy, cũng tuỳ
thuộc vào quy định riêng của mỗi nước mà các thành viên tham gia vào
NVTTM là khác nhau. Thông thường chủ thể tham gia bao gồm : NHTW, các
tổ chức tín dụng, các tổ chức phi tín dung, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá
nhân… nhưng không phải tất cả các chủ thể đều có thể tham gia mà phải có
những điều kiện cần thiết. Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi thành viên, đó
là:
- Thứ nhất : NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng
bao gồm cả tiền mặt và tìên gửi , về mặt lý thuyết thành viên tham gia mua
bán trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các tổ chức tín
dụng mà còn cả các tổ chức khác, thậm chí có thể cả các cá nhân miễn là họ
có tiền mặt và tiền gửi.
- Thứ hai : nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động
theo hướng đa năng như hệ thống tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay thì
phạm vi thành viên tham gia mở rộng đến tổ chức tín dụng là đủ .
- Thứ ba: khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán. nếu cá nhân
không có séc hoặc tiền trên tài khoản gửi tại NHTW thì không thể tham gia
mua bán được trên thị trường mở, nếu tổ chức tín dụng(TCTD) không có
mạng kết nối với NHTW trong điều kiện giao dịch trên mạng thì cũng không
thể trở thành thành viên.
2.2.2. Điều kiện tham gia thị trường mở ở Việt Nam
Chủ thể tham gia nghiệp vụ TTM ở Việt Nam, được quy định như sau:
+ NHTW tham gia với tư cách vừa là người tổ chức vừa là người điều
hành thị trường, vừa là người trực tiếp mua bán trên thị trường .
+ Các thành viên khác là các TCTD được thành lập và hoạt động theo
luật các TCTD bao gồm : TCTD Nhà nước, TCTD cổ phần, TCTD hợp tác,
TCTD phi ngân hàng, TCTD nước ngoài được phép hoạt động ở Việt Nam.
Theo điều 5, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000
thì thành viên tham gia TTM phải có các điều kiện sau:
- Có tài khoản tiền gửi tại NHTW
- Có nối mạng máy tính với NHTW
- Có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán
- Chấp hành quy định NVTTM
- Có đăng kí tham gia NVTTM
Các tổ chức tín dụng khi đượcNHTW công nhận là thành viên tham gia
NVTTM sẽ được cấp mã số chữ kí cho những người đại diện qua máy tính,
máy Fax và mã số chữ kí cho những người đại diện tổ chức tín dụng cũng như
người tham gia giao dịch thực hiện chế độ bảo mật với các giao dịch
3. Nội dung hoạt động thị trường mở
Để hiểu được nội dung hoạt động thị trường mở ta sẽ tìm hiểu nó trên
các khía cạnh: phương thức mua bán giấy tờ có giá và phương thức đấu thầu .
3.1.Phương thức mua bán trên thị trường mở
Tuỳ thuộc vào trạng thái khối lượng thị trường, NHTW tiếp cận NVTTM bằng một
trong hai hướng :
- Dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHTW ngay lập tức
mua vào hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn(mua bán hẳn).
- Nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ hoặc dự trữ trong
thời gian tới là thiếu ổn định thì NHTW thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ
bằng các hợp đồng mua lại đối với trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng các
giao dịch mua bán đảo ngược khi muốn giảm dự trữ tam thời.
Như vậy có hai hình thức giao dịch chủ yếu là hình thức mua bán hẳn và hình thức
mua bán có thời hạn.
*. Mua - bán hẳn : là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ
bên bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại. Với phương thức này, chỉ
được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại (tức thời gian thanh toán còn lại
của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá được mua, bán thông qua nghiệp vụ
TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định trong từng thời kỳ(ở Việt Nam hiện nay là
90 ngày).
*. Mua bán có kỳ hạn(giao dịch có thời hạn): là việc bên bán bán và chuyển giao
giấy tờ có giá cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có
giá đó sau thời gian nhất định.
Theo cách chia này, thì hình thức mua bán có thời hạn bao gồm hai hình thức là
hợp đồng mua lại và bán – mua đảo ngược mà các nước thường hay sử dụng. Trong đó,
hợp đồng mua lại được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn tăng dự trữ tạm thời còn
hình thức bán- mua đảo ngược sử dụng trong trường hợp NHTW muốn giảm dự trữ tạm
thời.
+ Hợp đồng mua lại : khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực
tiếp vào việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng
khoán của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày
nhất định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động
khi hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ thống
tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện hợp đồng mua lại thường là 7 ngày.
+ Bán- mua đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao
dịch theo hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán
ngay chứng khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các
chứng khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện hợp đồng thường là 7 ngày.
3.2.Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn
đều được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương
thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng .
3.2.1 Phương thức đấu thầu khối lượng
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ
TTM trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá
mua hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :
- NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần
mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần bán).
- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc cần
bán theo mức lãi suất do NHTW công bố
Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng trúng thầu của các đơn vị tham gia dự
thầu theo nguyên tắc sau :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khồi lượng dự thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW cần mua
hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ theo tỷ lệ thuận với
khối lượng dự thầu của các TCTD.
3.2.2.Phương thức đấu thầu lãi suất
Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở khối
lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc cần bán.
- NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần
bán.
- Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua
hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và
được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự lãi suất dự
thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự
tăng dần nếu NHTW là người bán.
- Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và lãi suất dự
thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối lượng giấy tờ có giá
NHTW cần mua hoặc cần bán.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc
theo lãi suất riêng lẻ:
+ Lãi suất thống nhất : là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi
suất trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.
+ Lãi suất riêng lẻ : khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi
suất dự thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.
Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà
NHTW cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua
hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính tỷ lệ thuận với khối lượng
dự thầu của các TCTD đó.
4. Cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM
4.1. Khái niệm cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng
Nghiệp vụ TTM được coi là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, có hiệu quả
nhất vì nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng nhất đối với những thay đổi trong cơ
số tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong lượng tiền cung ứng. Việc
NHTW mua trên TTM làm tăng cơ số tiền tệ và do đó làm tăng lượng tiền cung ứng, còn
việc bán trên TTM thì thu hẹp cơ số tiền tệ và làm giảm lượng tiền cung ứng. Vậy để hiểu
rõ cơ chế tác động tới lượng tiền cung ứng của NVTTM chúng ta cần lắm chắc các khái
niệm về cơ số tiền tệ và lượng tiền cung ứng :
- Cơ số tiền tệ ( hay lượng tiền cơ bản (MB-Money Base) bao gồm lượng tiền trong
lưu thông (C) cộng với lượng tiền dự trữ trong hệ thống các ngân hàng (R ) (bao gồm cả
tiền dự trữ bắt buộc mà các NHTM gửi tại NHTW (RR) và dự trữ vượt quá nằm trong két
của các NHTM(ER)
MB= C +R (1)
R = RR + ER (2)
- Lượng tiền cung ứng( hay mức cung tiền (MS) là tổng số tiền có khả năng thanh
toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kì hạn tại các
NHTM(D).
Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ bản bởi do hoạt động “tạo ra
tiền” của các NHTM.
MS = C + D = ( 1+ C/D) D (4)
Để đảm bảo khả năng thanh toán, tránh sự sụp đổ, phá sản của các ngân hàng,
NHTW quy định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định (rr). Đó là số tiền bắt buộc mà mỗi
NHTW phải gửi ở NHTW trên tổng số tiền gửi của NHTM
RR = rr * D (3)
Từ (1),(2)và (3) suy ra: MB = rr* D + ER + C
MB = D (rr + ER/D +C/D ) (5)
Từ (4) và (5) suy ra : MS = )1(
D
C
.
D
C
D
ERrr
1 . MB
Số nhân tiền tệ :Mm
Như vậy lượng tiền cung ứng ở trên chỉ gồm tiền mặt và tiền gửi không kì hạn (M1).
Ở các quốc gia phát triển người ta còn có thêm một số thành phần khác vào lượng tiền
cung ứng.
Ta có thể biểu diễn MB và MS theo mô hình sau:
4.2. Cơ chế tác động của NVTTM
NVTTM tác động lên cung tiền và lãi suất trên thị trường bằng việc mua bán các giấy
tờ có giá trên TTM.
- Khi NHTW thay mặt chính phủ đưa chứng khoán ra thị trường thứ nhất để phát
hành, nhân dân và các tổ chức đem tiền mặt đến mua nck. Đó là nghiệp vụ bán trên TTM
của NHTW. Như vậy với nghiệp vụ này NHTW đã hút bớt một lượng tiền ra khỏi lưu
thông hoặc làm cho dự trữ của các TCTD giảm làm giảm khối lượng cho vay tín dụng của
các TCTD; qua đó ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ, số nhân tiền tệ làm lượng tiền cung ứng MS
giảm và lãi suất trên thị trường tăng
- Dĩ nhiên không phải đợi đến khi chính phủ nhờ phát hành, bản thân NHTW cũng
có chứng khoán riêng của nó do tích luỹ hoặc do các đơn vị khắc thế chấp . Khi cần thu hẹp
lượng tiền mặt ngoài lơu thông NHTW vẫn trực tiếp thực hiện nghiệp vụ bán như một hoạt
động bình thường.
Ngược lại với nghiệp vụ bán là nghiệp vụ mua, nếu NHTW muốn phát hành tiền vào
lưu thông quaTTM, nó đơn giản dùng tiền mặt mua chứng khoán trên thị trường thứ cấp
hoặc của các TCTD. Khi cá nhân hay tổ chức bán chứng khoán cho NHTW, chứng khoán
về tay NHTW ngược lại tiền mặt trong nền kinh tế tăng. Như vậy khi mua chứng khoán
trên TTM, NHTW đã thêm một lượng tiền vào lưu thông làm tăng lượng tiền cung ứng và
làm lãi suất thị trường giảm.
Phát hành tiền trên nghiệp vụ TTM cũng được coi là nghiệp vụ phát hành thanh
khiết. Bởi vì tiền mặt