I/ Bản chất và nội dung kinh tế của tiền lương
1. Bản chất của tiền lương
Theo Mác, lao động của con người là một trong ba yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất. Lao động giữ vai trò quan trọng trong việc tái tạo và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Ông cho rằng: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của sức lao động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI, quan niệm tiền lương là một phần của thu nhập quốc dân, được Nhà nước phân phối một cách có tổ chức, có kế hoạch cho người lao động căn cứ vào số lượng người lao động và chất lượng lao động. Điều đó có nghĩa là tiền lương chịu sự tác động của quy luật cân đối, có kế hoạch và chịu sự chi phối của Nhà nước. Tiền lương của người lao động phụ thuộc vào kết quả lao động của toàn đơn vị chứ không phụ thuộc vào năng suất của từng người.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quan niềm về tiền lương trong thời kì này là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động để hoàn thanh công việc. Với quan niệm này thì bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thỏa thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động.
Theo khái niệm tổng quát nhất thì “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, kooois lượng công việc và chất lượng lao động mà người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp”.
29 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1176 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về Tiền lương và các khoản trích theo lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1: Tổng quan về tiền lương và các khoản trích theo lương
I/ Bản chất và nội dung kinh tế của tiền lương
Bản chất của tiền lương
Theo Mác, lao động của con người là một trong ba yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất. Lao động giữ vai trò quan trọng trong việc tái tạo và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Ông cho rằng: Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của sức lao động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI, quan niệm tiền lương là một phần của thu nhập quốc dân, được Nhà nước phân phối một cách có tổ chức, có kế hoạch cho người lao động căn cứ vào số lượng người lao động và chất lượng lao động. Điều đó có nghĩa là tiền lương chịu sự tác động của quy luật cân đối, có kế hoạch và chịu sự chi phối của Nhà nước. Tiền lương của người lao động phụ thuộc vào kết quả lao động của toàn đơn vị chứ không phụ thuộc vào năng suất của từng người.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quan niềm về tiền lương trong thời kì này là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động để hoàn thanh công việc. Với quan niệm này thì bản chất của tiền lương chính là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động thông qua sự thỏa thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao động.
Theo khái niệm tổng quát nhất thì “Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, kooois lượng công việc và chất lượng lao động mà người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp”.
Như vậy, tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động phải trả cho người lao động trên cơ sở số lượng, chất lượng của sức lao động mà họ bỏ ra. Hiểu rõ bản chất của tiền lương là cơ sở để Nhà nước hoạch định chính sách Tiền lương thích hợp, giúp doanh nghiệp có lựa chọn phương thức lương phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình.
Nhìn chung, khái niệm tiền lương có tính chất khái quát hơn và cùng với nó là một loạt các khái niệm khác như: tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế và tiền lương tối thiểu, tiền lương cơ bản.
Tiền lương danh nghĩa: là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người lao động căn cứ vào hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên trong việc thuê lao động. Trên thực tế, mọi mức lương trả cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa. Song, nó chưa cho ta nhận thức đầy đủ về mức trả công thực tế cho người lao động.
Tiền lương tối thiểu: là “cái ngưỡng” cuối cùng để từ đó xây dựng các mức lương khác tạo thành hệ thống tiền lương của một ngành nào đó hoặc hệ thống tiền lương chung thống nhất của một nước, là căn cứ để hoạch định chính sách tiền lương. Nó được coi là yếu tố hết sức quan trọng của chính sách tiền lương. Nước ta đã nhiều lần điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu như: từ ngày 1/5/2011 là 830.000 đồng/tháng, từ ngày 1/5/2012 là 1.050.000đồng / tháng, ngày 1/7/2013 là 1.150.000 đồng/ tháng
Tiền lương cơ bản: hay còn hiểu là mức lương cứng, được tính căn cứ trên mức lương tối thiểu nhân với hệ số lương trong thang hệ số của nhà nước, còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì lương cơ bản là mức lương thỏa thuận giữa nhà quản lý và người lao động chưa bao gồm các khoản tăng lương và phụ cấp khác.
Tiền lương thực tế: chính là tổng tiền lương cơ bản, các khoản tăng lương và phụ cấp.
Trong đời sống kinh tế hiện nay thì tiền lương có ý nghĩa vô cùng to lớn, bởi đó là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, nó đảm bảo cho cuộc sống của mỗi cá nhân, nó quy định mức sống, sự tồn tại và phát triển củ mỗi con người trong xã hội. Còn đối với doanh ngiệp có thể sử dụng tiền lương làm đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần tích cực lao động, là nhân tố thúc đẩy để tăng năng suất lao động.
Chức năng của tiền lương
Tiền lương là một phạm trù kinh tế, nó gắn liền với lao động và nền sản xuất hàng hóa. Trong điều kiện còn tồn tại nền sản xuất hàng hóa và tiền tệ thì tiền lương còn là một yếu tố của chi phí sản xuất kinh doanh.
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, các doanh nghiệp thường sử dụng tiền lương làm đòn bẩy để tăng năng suất lao động. vì vậy tiền lương cóc các chức năng sau:
Chức năng tài sản sản xuất sức lao động :
Cùng với quá trình tái sản xuất của cải vật chất, sức lao động cũng cần phải được tái tạo. trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau việc tái sản xuất sức lao động có sự khác nhau. Sự khác nhau này thể hiện bởi quan hệ sản xuất thống trị. Song nhìn chung quá trình tái sản xuất sức lao động diễn ra trong lịch sử thể hiện rõ sự tiến bộ của xã hội. sự tiến bộ này gắn liền với sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của những thành tựu khoa học – kỹ thuật mà nhân lọai sang tạo ra. Chính nó đã làm cho sức lao động được tái sản xuất ngày càng tăng cả về số lượng và cả về chất lượng
Quá trình tái sản xuất sức lao động được thực hiện bởi việc trả công cho người lao động thông qua tiền lương.
Sức lao động là sản phẩm chủ yếu của xã hội, nó luôn luôn được hòan thiện và phát triển nhờ thường xuyên được duy trì và khôi phục. Như vậy bản chất cua tái sản xuất sức lao động nghiẽa là đảm bảo cho người lao động có một số lượng tiền lương sinh họat nhất định để học có thể: duy trì và phát triền sức lao động của chính mình, sản xuất ra sức lao động mới, tích lũy kinh nghiệm, nâng cáo trình độ để hình thành kỹ năng lao động, tăng cường chất lượng lao động.
Chức năng thước đo giá trị
Khi tiền lương được trả cho người lao động ngang với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra trong quá trình thực hiện công việc thì xã ội có thể xác định chính xác hao phí lao động của tòan thể cộng đồng thông qua tổng quỹ lưưong cho tòan thể người lao động. Điều nàu có nghĩa trong công tác thống kê, giúp nhà nước họach định các chính sách điều chỉnh mức lương tối thiểu để đảm bảo hợp lý thựctế luôn phù hợp với chính sách của nhà nước.
Chức năng kích thích lao động:
Trong quá trình lao động, lợi ích kinh tế là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hoạt động của con người, và đó cũng là động lực mạnh mẽ nhất của tiến bộ kinh tế xã hội. Lợi ích của người lao động là động lực sản xuất. Thực tế cho thấy rằng khi được trả công xứng đáng thì người lao động sẽ làm việc tích cực, sẽ không ngừng hoàn thiện mình hơn nữa và ngược lại, nếu người lao động không được trả công xứng đáng với công sức của họ bỏ ra thì sẽ có những biểu hiện tiêu cực không thuận lợi cho lợi ích của doanh nghiệp. Thậm chí nó sẽ có những cuộc đình công xảy ra, bạo loạn gây nên xáo trộn về chính trị, mất ổn định xã hội.
Ở một mức độ nhất định thì tiền lương là một bằng chứng thể hiện giá trị, địa vị và uy tín của người lao động trong gia đình, tại doanh nghiệp cũng như ngoài xã hội. Vì vậy, tổ chức tiền lương và tiền công thúc đẩy, khuyến khích người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động, đảm bảo sự công bằng trên cơ sở thực hiện trả lương. Tiền lương phải đảm bảo: khuyến khích người lao động có tài năng, nâng cao trình độ văn hóa và nghiệp vụ cho người lao động, khắc phục chủ nghĩa bình quân trong phân phối, biến phân phối trở thành một động lực thực sự của sản xuất.
Chức năng điều tiết lao động:
Trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển cân đối giữa các ngành, nghề ở các khu vực trên toàn quốc, nhà nước thường thông qua hệ thống thag bảng lương, các chế độ phụ cấp cho từng ngành nghề, từng vùng để làm công cụ điều tiết lao động. Nhờ đó, tiền lương đã góp phần tạo ra một cơ cấu hợp lý tạo điều kiện cho sự phát triển của xã hội.
Chức năng tích lũy:
Đảm bảo tiền lương của người lao động không những duy trì được cuộc sống hàng ngày mà còn có thể dự phòng cho cuộc sống lâu dài khi họ hết khả năng lao động hoặc xảy ra bất trắc.
Chức năng công cụ quản lý Nhà nước:
Trong quá trình lao động sản xuất kinh doanh người sử dụng lao động đứng trước hai sức ép là chi phí sản xuất và kết quả sản xuất. Họ thường tìm mọi cách có thể để làm giảm thiểu chi phí trong đó có tiền lương trả người lao động.
Bộ luật lao động ra đời, trong đó có chế độ tiền lương, bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động đồng thời bảo vệ quyền lợi người lao động và lợi ích hợp pháp của người lao động, tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hòa và ổn định góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động nhằm đạt năng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội trong lao động, sản xuất, dịch vụ, tăng hiệu quả sử dụng và quản lý lao động.
Với các chức năng trên ta có thể thấy tiền lương đóng một vai trò quan trọng việc thúc đẩy sản xuất và phát huy tính chủ động, sáng tạo của người lao động, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương
Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung – cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương:
Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì tiền lương có xu hướng tăng, còn khi cung về lao động bằng cầu về lao động thì thị trường lao động đạt tới sự cân bằng. Tiền lương lúc này là tiền lương cân bằng, mức tiền lương này bị phá vỡ khi các nhân tố ảnh hưởng tới cung cầu về lao động thay đổi như (năng suất biên của lao động, giá cả của hàng hóa, dịch vụ).
Khi chi phí sinh hoạt thay đổi, do giá cả hàng hóa, dịch vụ thay đổi sẽ kéo theo tiền lương thực tế thay đổi. Cụ thể khi chi phí sinh hoạt tăng lên thì tiền lương thực tế sẽ giảm. Như vậy buộc các đơn vị, các doanh nghiệp phải tăng tiền lương danh nghĩa cho công nhân để đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo tiền lương thực tế không bị giảm.
Trên thị trường luôn tồn tại sự chênh lệch tiền lương giữa các khu vực tư nhân, Nhà nước, liên doanh, chênh lệch giữa các ngành, giữa các công việc có mức độ hấp dẫn khác nhau, yêu cầu về trình độ lao động cũng khác nhau. Do vậy, Nhà nước cần có các biện pháp điều tiết tiền lương cho hợp lý.
Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp:
Các chính sách của doanh nghiệp: các chính sách lương, phụ cấp, giá thành được áp dụng triệt để phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền lương, với doanh nghiệp có khối lượng vốn lớn thì khả năng chi trả tiền lương cho người lao động sẽ thuận tiện dễ dàng. Còn ngược lại nếu khả năng tài chính không vững, thì tiền lương của người lao động sẽ rất bấp bênh.
Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều đến tiền lương. Việc quản lý được thực hiện như thế nào, sắp xếp đội ngũ lao động ra sao để giám sát và đề ra những biện pháp kích thích sự sáng tạo trong sản xuất của người lao động để tăng hiệu quả ,năng suất lao động góp phần tăng tiền lương.
Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động:
Trình độ lao động : với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập cao hơn so với lao động có trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó người lao động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối cho việc đào tạo đó,
Thâm niên công tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đôi với nhau. Một người qua nhiều năm công tác sẽ đúc rút kinh nghiệm,hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra trong công việc,nâng cao bản lĩnh trách nhiệm của mình trước công việc đạt năng suất chất lượng cao vì thế mà thu nhập của họ sẽ ngày càng tăng lên.
Mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không đều ảnh hưởng ngay đến tiền lương của người lao động.
Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc :
Mức hấp dẫn của công việc : công việc có sức hấp dẫn cao thu hút được nhiều lao động.khi đó, doanh nghiệp sẽ không bị sức ép tăng lương. Ngược lại, về công việc kém hấp dẫn để thu hút được lao động doanh nghiệp phải có biện pháp đặt mức lương cao hơn.
Mức độ phức tạp của công việc: với độ phức tạp của công việc càng cao thì định mức tiền lương cho công việc đó càng cao. Độ phức tạp của công việc có thể là những khó khăn về trình độ kỹ thuật, khó khăn về điều kiện làm việc, mức độ nguy hiểm cho người thực hiện do đó mà tiền lương sẽ cao hơn so với công việc giản đơn
Các nhân tố khác :
Ở đâu có sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ tuổi, thành thị, và nông thôn thì ở đó có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn, không phản ánh được mức lao động thức tế của người lao động đã bỏ ra, không đảm bảo nguyên tắc trả lương nào cả nhưng trên thực tế vẫn tồn tại
Sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ảnh hưởng đến tiền lương của lao động.
Chế độ tiền lương:
Chế độ tiền lương theo cấp bậc
Là chế độ tiền lương áp dụng cho công nhân,tiền lương cấp bậc được xây dựng dựa trên số lượng và chất lượng lao động.có thể nói rằng chế độ tiền lương cấp bậc nhằm mục đích xác định chất lượng lao động , so sánh chất lượng lao động trong các ngành nghề khác nhau và trong từng ngành nghề. Đồng thời, nó có thể so sánh điều kiện làm việc nặng nhọc, có hại cho sức khỏe với điều kiện lao động bình thường .chế độ tiền lương cấp bậc có tác dụng rất tích cực . Nó điều chỉnh tiền lương giữa các ngành nghề rất hợp lý, nó cũng giảm bớt tính chất bình quân trong việc trả lương thực hiện triệt để quân điểm phân phối theo lao động.
Chế độ tiền lương do nhà nức ban hành – nghị định số 118/2005/NĐ- CPP ngày 15 tháng 09 năm 2005, doanh nghiệp dựa vào đó để vận dụng vào thực tế tùy theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Chế độ tiền lương cấp bậc bao gồm 3 yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau: thang lương , mức lương, tiêu chuẩn cấp bậc kĩ thuật.
Thang lương : là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa các công nhân cùng nghề hoặc nhóm nghề giống nhau theo trình độ cấp bậc của họ. Mỗi thang lương gồm một số các bậc lương và các hệ số phù hợp với bậc lương đó. Hệ số này do nhà nước xây dựng và ban hành.
Ví dụ: hệ số công nhân nghành cơ khí bậc 3/7 là 1,92 , bậc 4/7 là 2.33 Mỗi ngành có một bảng lương riêng.
Mức lương: là số lượng tiền tệ để trả công nhân lao động trong một đơn vị thời gian ( giờ , ngày , tháng) phù hợp với các bậc trong thang lương . Chỉ lương bậc 1 được quy định rõ còn các lương bậc cao được tính bằng cách lấy mức lương bậc 1 nhân vớ hệ số lương bậc phải tìm , mức lương bậc 1 theo quy định phải lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu.
Tiêu chuẩn cấp bậc kỳ thuật là văn bản quy định về mức độ phức tạp của công việc và yêu cầu lành nghề của công nhân ở bậc nào đó. Cấp bậc kỹ thuậ phản ánh yêu cầu trình độ lành nghề của công nhân, là căn cứ để xác định trình độ tay nghề của người công nhân.
Chế độ tiền lương theo cấp bậc chỉ áp dụng đối với những người lao động tạo ra sản phẩm trực tiếp. Còn đối với những người dán tiếp tạo ra sản phẩm như cán bộ quản lý, nhân viên văn phòng thì áp dụng chế độ lương theo chức vụ.
Chế độ lương theo chức vụ
Chế độ này thực hiện thông qua bảng lương do Nhà nước ban hành. Trong bảng lương này bao gồm nhiều nhóm chức vụ khác nhau và quy định trả lương cho tưng nhóm. Mức lương theo chế độ lương chức vụ được xác định bằng cách lấy mức lương bậc 1 nhân với hệ số phức tạp của lao động và hệ số điều kiện lao động của bậc đó so với bậc 1. Trong đó mức lương bậc 1 bằng mức lương tối thiểu nhân với hệ số mức lương bậc 1 so với mức lương tối thiểu. Hệ số này là tích số của hệ số phức tạp với hệ số điều kiện, Theo nguyên tắc phân phối thì việc tính tiền lương trong doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Bản thân Nhà nước chỉ khống chế mức lương tối thiểu chứ không khống chế mức lương tối đa mà Nhà nước điều tiết bằng thuế thu nhập.
Chế độ lương theo chức vụ được áp dụng trong các đơn vị của Nhà nước, còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì áp dụng luôn các mức lương khác nhau, không thông qua hệ số phức tạp & hệ số điều kiện.
Ngoài ra khi tính lương các doanh nghiệp còn áp dụng các chế độ khác như sau:
Chế độ thưởng:
Tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ sung cho tiền lương nhằm quán triệt hơn nguyên tắc phân phối lao động và nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tiền thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích vật chất đối với người lao động trong quá trình làm việc. Qua đó nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian làm việc.
Đối tượng xét thưởng: lao động có đóng góp vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Mức thưởng: căn cứ vào kết quả đóng góp của người lao động đối với doanh nghiệp qua năng suất lao động, chất lượng công việc. Ngoài ra còn căn cứ vào thời gian làm việc tạo doanh nghiệp.
Các loại tiền thưởng: tiền thưởng bao gồm tiền thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất lượng sản phẩm, thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sang kiến).
Tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh (thường xuyên): hình thức này có tính chất lương, đây thực chất là một phần của quỹ lương được tách ra để trả cho người lao động dưới hình thức tiền thưởng cho một tiêu chí nhất định.
Tiền thưởng thi đua (không thường xuyên): loại tiền thưởng này không thuộc quỹ lương mà được trích từ quỹ khen thưởng, khoản tiền này được trả dưới hình thức phân loại trong một kỳ (quý, nửa năm, năm).
Chế độ phụ cấp:
Phụ cấp trách nhiệm: áp dụng với thành viên không chuyên trách Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát (kể cả trưởng Ban kiểm soát) và những người làm một số công việc đòi hỏi trách nhiệm cao hoặc phải đảm nhiệm công tác quản lý khoogn thuộc chứ danh lãnh đạo.
Phụ cấp độc hại, nguy hiểm: áp dụng đối với người làm nghề hoặc cong việc có điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm, đặc biệt độc hại, nguy hiểm mà chưa được xác định trong mức lương.
Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với người đến làm việc tại những vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và các đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn.
Phụ cấp khu vực: áp dụng đối với người làm việc tại vùng xa xôi hẻo lánh và khí hậu xấu.
Phụ cấp lưu động: áp dụng đối với người làm nghề hoặc công việc thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở.
Các hình thức trả lương
Hình thức trả lương theo thời gian
Khái niệm: tiền lương thời gian là hình thức tiền lương tính theo thời gian làm việc, cấp bậc kỹ thuật hoặc chức danh và thang bậc lương theo quy định.
Phương thức: tuỳ theo yêu cầu trình độ quản lý thời giam lao động của doanh nghiệp , tính trả lương theo thời gian có thể thực hiện theo hai cách như sau :
Hình thức Tiền lương thời gian giản đơn: Là tiền lương được tính theo thời gian làm việc và đơn giá lương thời gian. Công thức :
- Tiền lương thời gian giản đơn gồm :
+ Tiền lương tháng: là tiền lương trả cho người lao động theo thang bậc lương quy định gồm tiền lương cấp bậc và các khoản phụ cấp như : phụ cấp độc hại , phụ cấp khu vực ... ( nếu có )
Tiền lương tháng chủ yếu được áp dụng cho công nhân viên công tác quản lý hành chính , nhân viên quản lý kinh tế , nhân viên thuộc các ngành hoạt động không có tính chất sản xuất .
Mi = Mn x Hi + (Mn x Hi + Hp )
Mi : Mức lương lao động bậc i
Mn: Mức lương tối thiểu
Hi : Hệ số cấp bậc lương bậc i
Hp : Hệ số phụ cấp
+ Tiền lương tuần : là tiền lương trả cho một tuần làm việc
+ Tiền lương ngày : là tiền lương trả cho một ngày làm việc và là căn cứ để tính trợ cấp BHXH phải trả cho cán bộ công nhân viên , trả lương cho công nhân viên những ngày họp , học tập và lương hợp đồng
Hình thức tiền lương thời gian có thưởng : là kết hợp giữa hình thức tiền lương giản đơn với chế độ tiền thưởng trong sản xuất .
Tiền thưởng có tính chất lượng như : thưởng năng suất lao động cao , tiết kiệm nguyên vật liệu , tỷ lệ sản phẩm có chất lượng cao .
Ưu nhược điểm của hình thức tiền lương thời gian :
Ưu điểm : đã tính đến thời gian làm việc thực tế , tính toán giản đơn , có thể lập bảng tính sẵn .
Nhược điểm : chưa đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động , chưa gắn liền với chất lưọng lao động .
Hình thức tiền lương trả theo sản phẩm
Khái niệm : Là hình thức tiền luơng trả cho người lao động tính theo số lượng sản phẩm, công việc chất lượng sản phẩm hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo chất lượng quy định và đơn giá lượng sản phẩm