Nấm (Fungi, số ít là Fungus) là một giới riêng- Giới nấm (Fungi), khoa học nghiên cứu về nấm được gọi là Nấm học (Mycology).
Người ta đã biết đến nấm và sử dụng nấm từ thời cổ xưa. Theo Quách Mạt Nhược, tác giả Bộ Trung quốc sử cảo thì người Trung Quốc đã biết ăn nấm từ cách đây 6000-7000 năm . Nghề nấu rượu có sử dụng nấm men và nấm sợi đã xuất hiện ở Trung Quốc từ cách đây 7000-8000 năm. Việc sử dụng nấm làm dược liệu (Thần khúc) đã có ở Trung Quốc từ cách đây 2550 năm. Các nấm dùng làm thuốc như Phục linh, Chư linh, Linh chi , Tử linh, Lôi hoàn, Mã bột, Thiền hoa, Trùng thảo, Mộc nhĩ đã được ghi trong sáchThần nông bản thảo kinh trong thời gian khoảng năm 100-200 sau Công nguyên.
12 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1972 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu Vi nấm (Microfungi), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vi nấm (Microfungi)
Nấm (Fungi, số ít là Fungus) là một giới riêng- Giới nấm (Fungi), khoa học nghiên
cứu về nấm được gọi là Nấm học (Mycology).
Người ta đã biết đến nấm và sử dụng nấm từ thời cổ xưa. Theo Quách Mạt Nhược,
tác giả Bộ Trung quốc sử cảo thì người Trung Quốc đã biết ăn nấm từ cách đây
6000-7000 năm . Nghề nấu rượu có sử dụng nấm men và nấm sợi đã xuất hiện ở
Trung Quốc từ cách đây 7000-8000 năm. Việc sử dụng nấm làm dược liệu (Thần
khúc) đã có ở Trung Quốc từ cách đây 2550 năm. Các nấm dùng làm thuốc như
Phục linh, Chư linh, Linh chi , Tử linh, Lôi hoàn, Mã bột, Thiền hoa, Trùng thảo,
Mộc nhĩ…đã được ghi trong sáchThần nông bản thảo kinh trong thời gian khoảng
năm 100-200 sau Công nguyên.
Ở phương Tây , Ray ( 1684-1704) người Anh, đã căn cứ vào đặc điểm sinh thái là
chính để phân 94 loại nấm thành 4 nhóm khác nhau trong sách Lịch sử thực vật.
Sau đó là các nghiên cứu phân loại nấm lớn căn cứ vào hình thái của Magnol
(1689), Tournefort (1694).
Khi Leewenhoek (1632-1723) làm ra chiếc kính hiển vi phóng đại được 200-300
lần thì người ta bắt đầu chú ý đến các nấm nhỏ hay gọi là vi nấm.Nhà khoa học
Italia P.A.Micheli (1679-1737) là người đầu tiên dùng kính hiển vi để nghiên cứu
nấm. trong tác phẩm Các chi thực vật mới (Nova Plantarum Genera) xuất bản năm
1729 ông đã nêu lên các bảng phân loại các chi nấm như Mucor, Tuber,
Aspergillus…. Học giả Hà Lan D.C.H. Persoon (1761-1836) trong các sách
Synopsis Methodica Fungarum và Mycologia Europeae đã đặt cơ sở cho phương
pháp và hệ thống phân loại nấm . Học giả Thụy Điển E.M. Fries (1794-1878) đã có
nhiều cống hiến trong việc phân loại các nấm lớn. Khoảng 100 năm sau đó việc
phân loại đa số nấm lớn đều dựa trên nghiên cứu của Fries.
Người đầu tiên vận dụng thuyết tiến hóa của Darwin vao việc phân loại nấm là nhà
khoa học Đức H.A.De Bary (1831-1888). Ông đã xuất bản sách Hình thái học và
sinh lý học nấm vào năm 1866 với cơ sở phân loại dựa trên trật tự tiến hóa. Ông
còn nghiên cứu nguồn gốc và tiến hóa của nấm, sáng tạo nên giả thuyết Đơn
nguyên luận.
Về sinh lý học, năm 1869 J.Raulin phát hiện nguyên tố vi lượng Zn rất cần cho sự
sinh trưởng của Asperrgillus niger; năm 1901 E.Wilders cho biết để sinh trưởng
nấm còn cần các nhân tố như Biotin, Thiamin, Inositol…
Về Di truyền học Blakeslee (1904) phát hiện ra sự phối hợp của các sợi nấm khác
giới tính ở nấm Mucor. Sau đó là các phát hiện tương tự của Kniep (1920 với nhiều
loài nấm Đảm, Dodge (1928) với nấm Neurospora. Về sau với nấm Neurosporra
người ta đã nghiên cứu sâu về di truyền học và trên cơ sở các nghiên cứu này mà
Beadles (1945) mới đề xuất được học thuyết Một gen-một enzym.
Nhà nấm học Italia P. A. Saccardo (1845-1920) đã chỉnh lý các nghiên cứu về nấm
và biên soạn bằng tiếng La Tinh 25 tập Kỷ yếu Nấm.
Tiến bộ của Sinh học phân tử và kỹ thuật kính hiển vi điện tử đã đem lại một diện
mạo mới cho việc nghiên cứu phân loại học và sinh lý học nấm. Các thành tựu
nghiên cứu đã được tổng kết khá đầy đủ trong 5 tập sách Giới Nấm (The Fungi)
của G. C. Ainsworth và cộng sự (Vol 1, 2.3.4A.4B. New York and London:
Academic Press, 1963-1973). Năm 1995 đã tái bản lần thứ 8 cuốn Từ điển về nấm
(Dictionary of the Fungi) của Ainsworth và Bisby. Nấm được chia thành 4 ngành
(Division, Phylum):
- Ngành Chytridiomycota
- Ngành Zygomycota
- Ngành Ascomycota
- Ngành Basidiomycota
Theo thuật ngữ Latinh tên các taxon trong phân loại nấm là như sau: Ngành-
mycota; Ngành phụ-mycotina; Lớp- mycetes; Lớp phụ- mycetidae; Bộ-ales; Bộ
phụ- ineae;Họ-aceae; Họ phụ- oideae.
Hiện nay tồn tại các hệ thống phân loại nấm không thống nhất với nhau, chủ yếu là
các hệ thống phân loại theo Ainsworth và cộng sự (1973), V.Arx (1981),
Ainsworth & Bisby (1983), Kendrick (1992), Ainsworth & Bisby (1995),
Alexopoulos & Mins (1996).
Chúng tôi sử dụng hệ thống phân loại theo Giáo trình nấm học CBS. ( CBS Course
of Mycology ), lần xuất bản thứ 4, Baarn, Delft, 1998:
Ngành Lớp Lớp phụ hoặc nhóm
Labyrinthomorpha Labyrinthulea
Thraustochytriacea
Pseudofungi
Hyphochytriomycetes
Oomycetes
Chytridiomycota Chytridiomycetes
Zygomycota
Zygomycetes
Trichomycetes
Ascomycota
Archiascomycetes
Saccharomycetes
Ascomycetes
discomycetes
Major licheneized orders
plectomycetes
pyrenomycetes
loculoascomycetes
powdery mildews
Laboulbeniomycetes
conidial ascomycetes
(Hyphomycetes,
Coelomycetes)
Basidiomycota
Urediniomycetes
Platyglomycetidae
Urediniomycetidae
Ustilaginomycetes
Hymenomycetes
Tremellomycetidae
Dacrymycetidae
Auriculariomycetidae
Hymenomycetidae
Các loài nấm không tìm thấy (đúng ra là chưa tìm thấy) dạng sinh sản
hữu tính được xếp chung vào nhóm Nấm bất toàn – Fungi imperfecti. Theo hệ
thống phân loại của Saccardo (1880,1886) thì các nấm này được xếp thành một
lớp- Lớp Deuteromycetes. Khi phát hiện thấy cơ quan sinh sản hữu tính thì
người ta đổi tên loài và xếp sang các lớp khác. Ví dụ nấm lúa von trước kia
được gọi là Fusarium moniliforme, nhưng sau khi tìm thấy cơ quan sinh sản
hữu tính thì lại chuyển thành loài Gibberella fujikuroi. Các nấm bất toàn hiện
được xếp trong các nhóm conidial Ascomycetes hay conidial Basidiomycetes.
Hiện nay người ta cho rằng trong tự nhiên có khoảng 1 triệu đến 1,5
triệu loài nấm nhưng mới định tên được khoảng 10 000 chi và 70 000 loài,
Trung Quốc đã điều tra được 40 000 loài. Riêng các loài nấm thuộc Nấm bất
toàn ở nước ta hiện mới chỉ phát hiện được 338 loài thuộc 306 chi khác nhau
(Bùi Xuân Đồng, 2004). Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật (VTCC) thuộc
Trung tâm Công nghệ sinh học Đại học Quốc gia Hà Nội đang hợp tác với
Viện NITE của Nhật Bản điều tra nghiên cứu khu hệ vi nấm ở Việt Nam và có
nhiều khả năng tìm thấy những loài mới trong khoa học.
Vậy những loài nấm nào là Vi nấm (Microfungi)? Đó là tất cả các nấm
không có mũ nấm (quả thể, fruit-body) có thể thấy rõ bằng mắt thường. Người
ta gọi những nấm có mũ nấm là các nấm bậc cao. Tuy nhiên khi nuôi cấy sợi
nấm của các nấm bậc cao để nghiên cứu hoặc để sản xuất sinh khối thì chúng
cũng được coi như vi nấm và là đối tượng nghiên cứu của ngành Vi sinh vật (
giống như các loài vi nấm khác). Để nghiên cứu vi nấm bắt buộc phải quan sát
dưới kính hiển vi và phải nuôi cấy trong các điều kiện vô khuẩn như đối với vi
khuẩn.
Căn cứ vào hình thái người ta chia vi nấm thành hai nhóm khác nhau:
nhóm Nấm men ( Yeast ) và nhóm Nấm sợi (Filamentous fungi). Chúng chỉ
khác nhau về hình thái chứ không phải là những taxon phân loại riêng biệt.
Nhiều nấm men cũng có dạng sợi và rất khó phân biệt với nấm sợi.
I- CẤU TẠO CHUNG CỦA SỢI NẤM
1. Hình thái và cấu tạo của sợi nấm
Sợi nấm (hypha) có dạng hình ống phân nhánh bên trong chứa chất nguyên
sinh có thể lưu động. Về chiều dài chúng có sự sinh trưởng vô hạn nhưng về
đường kính thì thưopừng chỉ thay đổi trong phạm vi 1-30µm (thông thường là
5-10 µm).
Đầu sợi nấm có hình viên trụ, phần đầu gọi là vùng kéo dài (extension
zone). Lúc sợi nấm sinh trưởng mạnh mẽ đây là vùng thành tế bào phát triển
nhanh chóng, vùng này có thể dài đến 30 µm. Dưới phần này thành tế bào dày
lên và không sinh trưởng thêm được nữa. Màng nguyên sinh chất thường bám
sát vào thành tế bào. Trên màng nguyên sinh chất có một số phần có kế cấu
gấo nếp hay xoặ lại, người ta gọi là biên thể màng (plasmalemmasome) hay
biên thể (lomasome). Nhiều khi chúng có tác dụng tiết xuất các chất nào đó.
Thành tế bào (cell wall) của nấm có thành phần hóa học khác nhau. Đây
là một tiêu chí quan trọng khi định loại nấm. sau đây là các thành phần chính
của thành tế bào ở một số nấm:
Chi nấm: 1 2 3 4 5 6
Thành phần thành tế
bào:
Glucan 16 54 0 43 29 6
Cellulose - 36 0 0 0 0
Chitine 58 0 9 19 1 10
Chitosan - 10 33 - 0 -
Mannan - <1 2 2 31 <3
Protein 10 5 6 11 13 7
Lipid - 3 8 5 9 3
Chú thích: 1- Allomyces
2- Phytophthora
3- Mucor
4- Aspergillus
5- Saccharomyces
6- Schizophyllum
Thành phần chính trong thành tế bào của một số nhóm nấm là như sau:
Acrasiales Cellulose, Glycogen
Oomycetes Cellulose, Glucan
Hyphochytriomycetes Cellulose. Chitine
Zygomycetes Chitin, Chitosan
Chytridiomycetes, Ascomycota (dạng sợi), Basidiomycota (dạng sợi),
Fungi Imperfecti Chitine, Glucane
Riêng với Saccharomycetales và Cryptomycocolacales là Glucan, mannan
Với Rhodotorula và Sporobolomycetales là Chitine, mannan
Với màng nguyên sinh chất (protoplasmic membrane) thì thành phần ít thay
đổi ở các loài nấm sợi, có khác nhau với dạng nấm men. Sau đây là một số ví
dụ:
Loài nấm 1 2 3 4 5
Thành phần màng
NSC
Protein 52,0 38,5 46,5 45,5 25,5
Lipid 43,0 40,4 41,5 31,0 40,0
Polysaccharide 9,0 5,2 3,2 25,0 30,0
Acid nucleic 0,3 1,1 7,5 0,5 -
Chú thích: 1- Candida albicans (dạng nấm men)
2- Candida utilis
3- Saccharomyces cerevisiae
4- Candida albicans (dạng nấm sợi)
5- Fusarium culmorum
Nhân tế bào được bao bọc bởi màng nhân, trên màng nhân có nhiều lỗ
thủng, trong nhân có hạch nhân (nucleolus). Thường có nhiều nhân tập trung ở
phần ngọn của sợi nấm. Trong các tế bào phía sau ngọn thường chỉ có 1-2
nhân.
Nhân của nấm thường nhỏ, khó thấy rõ dưới kính hiển vi quang học.
Nhiễm sắc thể trong nhân thường không dễ nhuộm màu, số lượng tương đối
nhỏ. Số lượng này là 6 ở các nấm Magnaporthe grisea, Paecilomyces
fumosoroseus, Trichoderma reesei; là 7 ở các nấm Histoplasma capsulatum,
Neurospora crassa, Phenaerchateae chrysosporium, Podospora anserina, là 8 ở
các nấm Aspergillus nidulans. Aspergillus niger,Acremonium chrysogenum,
Beauveria basiana, Lentinus edodes, là 10 ở nấm Penicillium janthinellum,là
11 ở nấm Schizophyllum commune, là 12 ở nấm Curvularia lunata, là 13 ở
nấm Agaricus bisporus, là 15 ở nấm Cyanidioschyzon merolae, là 20 ở nấm
Ustilago maydis….
Trong tế bào nấm còn có các cơ quan giống như trong tế bào các sinh vật
có nhân thực (Eukaryote) khác. Đó là ty thể (mitochondrion), mạng nội chất
(endoplasmic reticulum), dịch bào hay không bào (vacuolus), thể ribô
(ribosome), bào nang (vesicle) , thể Golgi sinh bào nang (Golgi body, Golgi
apparatus, dictyosome), các giọt lipid (lipid droplet), các tinh thể (chrystal) và
các vi thể đường kính 0,5-1,5 nm (microbody), các thể Vôrônin đường kính
0,2µm (Woronin body), thể Chitô đường kính 40-70nm(chitosome)… Ngoài ra
trong tế bào chất còn có các vi quản rỗng ruột, đường kính 25nm
(microtubule), các vi sợi đường kính 5-8nm( microfilament), các thể màng biên
( plasmalemmasome)
Ribosome của nấm thuộc loại 80S ( S là đơn vị hệ số lắng Svedberg) có
đường kính khoảng 20-25nm, gồm có 2 bán đơn vị ( subunit); bán đơn vị lớn
(large subunit ) 60S (gồm 3 loại ARN- 25S; 5,8S và 5S cùng với 30-40 loại
protein). Bán đơn vị nhỏ (small subunit) 40S (gồm loại ARN 18S và 21-24 loại
protein)
Phần ngọn có thể tách với phần bên dưới bằng một không bào, lúc đầu
nhỏ nhưng về sau kết hợp lại với nhau để lớn dần, tạo nế áp lực dồn tế bào chất
về phía đỉnh ngọn sợi nấm. Tại phần già nhất của sợi nấm thường xảy ra hiện
tượng tự tan (autolysis) hoặc bị tan rã dưới tác dụng của các men phân cắt
(lytic enzyme) do các vi sinh vật khác sinh ra. Cũng có những phần sợi nấm
già phần lipid tích tụ nhiều và kết hợp với thành tế bào tạo nên một màng dày,
tạo thành những bào tử áo (chlamydospore). Loại bào tử này có thể giúp sợi
nấm tồn tại được qua những điều kiện môi trường khắc nghiệt. Trường hợp này
rất giống với các bào tử nội sinh (endospore).
Sợi nấm không ngừng phân nhánh và vì vậy khi một bào tử nẩy mầm
trên một môi trường đặc sẽ phát triển thành một hệ sợi nấm (mycelium, số
nhiều- mycelia), sau 3-5 ngày có thể tạo thành một đám nhìn thấy được gọi là
khuẩn lạc (colony). Vào giai đoạn cuối của sự phát triển khuẩn lạc sẽ xảy ra sự
kết mangh (anastomosis) giữa các khuẩn ty với nhau, làm cho cả khuẩn lạc là
một hệ thống liên thông mật thiết với nhau, thuận tiện cho việc vận chuyển
chất dinh dưỡng đến toàn bộ hệ sợi nấm. Hiện tượng kết mạng thường gặp ở
nấm bậc cao nhưng lại ít gặp ở các sợi nấm dinh dưỡng của nấm bậc thấp.
Hình thái, kích thước màu sắc, bề mặt của khuẩn lạc…có ý nghĩa nhất định
trong việc định tên nấm.
Phần lớn sợi nấm có dạng trong suốt, ở một số nấm sợi nấm mang sắc tố
tạo nên màu tối hay màu sặc sỡ. Sắc tố của mọt số nấm còn tiết ra ngoài moi
trường và làm đổi màu khu vực có nấm phát triển. Một số nấm còn tiết ra các
chất hữu cơ tạo nên các tinh thể trên bề mặt khuẩn lạc. Vì bào tử của nấm
thường cũng có màu nên cả khuẩn lạc thường có màu
2-Vách ngăn ở sợi nấm:
Sợi nấm ở một số nấm có vách ngăn ngang (septa, cross wall), đó là các
sợi nấm có vách ngăn (septate hyphae). Cũng có nhiều nấm sợi nấm không có
vách ngăn ngang- sợi nấm không vách ngăn (aseptate hyphae). Các nấm bặc
thấp thường có sợi nấm không vách ngăn, ngược lại các nấm bậc cao thường
mang sợi nấm có vách ngăn. Sợi nấm không vách ngăn mang nhiều nhân
nhưng vẫn có thể gọi là đơn bào. Ở các nấm không vách ngăn thì vách ngăn
vẫn có thể hình thành khi sản sinh thể sinh sản hay cơ quan sinh sản. tại các bộ
phận bị thương tổno sựi nám cũng có thể hình thành vách ngăn. Đó là loại vách
ngăn liên, không có lỗ thủng, có tác dụng bảo vệ cơ thể.
Sợi nấm có vách ngăn là cơ thể đa bào. Mỗi tế bào có 1 nhân hoặc nhiều
nhân. Tuy nhiên sợi nấm vẫn không phải do nhiều tế bào hợp thành mà là do
các vách ngăn tách sợi nấm ra thành nhiều tế bào.
Vách ngăn ngang được hình thành từ thành tế bào. Lúc đầu là một gờ
nhỏ hình khuyên sao đó tiến dần vào trong và lấp kín lại. Tuy nhiên vách ngăn
thươbf có 1 hay nhiều lỗ thửng. các lỗ có kích thước bằng nhau hay có 1 lỗ lớn
nhất ở giữa và nhiều lỗ nhỏ ở xung quanh. Vách ngăn điển hình ở Nấm túi
(Ascomycota) và Nấm bất toàn (Deuteromycetes) là loại có một lỗ ở chính
giữa, đường kính khoảng 0,05-0,5µm. Ở nấm Geotrichum candidum và nấm
Fusarium vách ngăn thường có nhiều lỗ nhỏ. Ở nấm Fusarium lỗ ở chính giữa
vách ngăn lớn hơn so với các lỗ khác. Một số Nấm đảm (Basidiomycota) có lỗ
hình thùng trên vách ngăn ngang, bọc bên ngoài bởi một cấu trúc màng gọi là
màng lỗ thùng (perenthesome). Trong điều kiện khô hạn việc hình thành vách
ngăn có thể giúp sợi nấm đề kháng được tốt hơn đối với môi trường.
Ờ Nấm túi và Nấm bất toàn nhiều khi trong tế bào còn thấy có các thể
Vôrônin (Woronin body) và các tinh thể protein.
3-Mô (tissue) của hệ sợi nấm:
Mô hay tổ chức của hệ sợi nấm thường gặp ở các nấm bậc cao. Chúng
xuất hiện trong một giai đoạn của vòng đời nấm. Loại mô này được gọi là tổ
chức sợi dày (plectenchyma). Tổ chức này lại chia ra thành hai loại: loại tổ
chức sợi xốp hay tổ chức tế bào hình thoi (prosenchyma) và tổ chức màng
mỏng hay tổ chức nhu mô giả ( pseudoparenchyma). Tổ chức sợi dày gặp ở
thân nấm và mũ nấm ở các nấm bậc cao, nhất là ở ngành Nấm túi và Nấm đảm.
Hạch nấm (scleorotium) xuất hiện khi nuôi cấy nấm sợi (nấm bậc thấp) trên
các môi trường già (nuôi cấy lâu ngày). Hạch nấm là hình thức bảo vệ nấm qua
giai đoạn bất lợi. Đó còn là nơi dự trữ các chất dinh dưỡng cho nấm. Kết cấu tổ
chức của hạch nấm gòm lóp ngoài cùng có thành tế bào màu đen. Dưới đó là
một lớp biểu bì rỗng. Bên trong là tổ chức sợi dày với các sợi nấm có màng
dày. Trong cùng là khối tổ chức sợi xốp. Thể đệm hay đệm nấm (stroma) cũng
là khối tổ chức sợi nấm dính nhau theo nhiều hướng. Trên hoặc trong thể đệm
có các cơ quan sinh sản của nấm.Thể đệm chỉ gặp ở Nấm túi và Nấm đảm.
Thừng nấm hay khuẩn sách (rhizomorph) cúng có tổ chức sợi nấm bện lại theo
kiểu tổ chức sợi dày.
4-Các dạng biến đổi của hệ sợi nấm:
4.1-Bào tử áo, bào tử, tế bào phình lớn:
Đôi khi gặp những tế bào sợi nấm phình lớn một cách vô quy tắc. Nói
chung khi gặp điều kiện ngoại cảnh bất lợi nguyên sinh chất co lại, vo tròn lại,
phía ngoài tạo thành lớp màng dày, bên ngoài thường có gai hay các mấu lồi.
Kết cấu này được gọi là bào tử áo hay bào tử màng dày (Chlamydospore). Loại
bào tử này không phải loại bào tử sinh sản (vô tính hoặc hữu tính) giúp phát
tán nấm ra môi trường xung quanh. Các loại bào tử này ta sẽ xem xét tới ở
phần dưới.
4.2-Sợi hút (haustorium):
Sợi nấm ký sinh trên bề mặt tế bào cây chủ rồi mọc ra sợi nấm đâm sâu
vào phía trong và tạo nên các sợi hút đâm vào các tế bào để hút chất dinh
dưỡng của cây chủ. Sợi hút có thể có các hình dạng khác nhau : hình sợi, hình
ngón tay, hình cầu…Nói chung các nấm ký sinh bắt buộc đều là những loài có
sợi hút.
Khi xuyên vào tế bào cây chủ một số sợi hút không làm rách được màng
nguyên sinh chất mà chỉ làm cho màng này lõm vào. Nhiều khi sợi hút phân ra
khá nhiều nhánh bên trong tế bào để tăng diện tích hấp thu chất dinh dưỡng.
Sợi hút
4.3- Sợi áp (appressorium) và đệm xâm nhiễm (infection
cushion):
Từ một bào tử nấm nẩy mầm trên bề mặt vật chủ (thường là lá cây) sẽ
mọc ra một sợi nấm và tiết ra chất nhầy để áp sát bề mặt này. Đầu sợi nấm
phình to lên như chiếc đĩa và tạo thành sợi áp. Từ sợi áp mọc ra sợi hút đâm
sâu vào tế bào vật chủ để hút chất dinh dưỡng. Mô ở vật chủ bị tiêu hủy dần
dưới tác dụng của các enzym thủy phân của sợi áp. Đệm xâm nhiễm là một
dạng mạng sợi phân nhánh và gắn với nhau như một tấm đệm ở tế bào vật chủ,
đầu sợi nấm thường phình to lên. Việc hình thành đệm xâm nhiễm thường do
cơ chế khống chế nội sinh và ảnh hưởng kích thích của môi trường
4.4- Sợi nấm bắt mồi (traps):
Một số nấm sống trong đất có cơ chế bắt mồi (giun tròn-nematode, amip-
amoeba..). Chúng hình thành nên những cấu trúc có dạng những cái bẫy và vì
vậy được gọi là nấm bẫy mồi (trapping fungi). Có thể có mấy kiểu sợi nấm bẫy
mồi sau đây:
- Bọng dính (adhesive knobs): Sợ nấm phát sinh những nhánh
ngắn ,thường thẳng góc với sợi nấm chính. Đỉnh các nhánh này
phình to lên thành những bọng hình cầu. các bọng này tiết ra chất
dính có thể giữ chặt lấy con mồi. Sau đó từ bọng mọc ra sợi nấm
xuyên qua vỏ con mồi. Cuối sợi này phồng lên thành bọng nhỏ bên
trong con mồi và tiếp tục phân nhánh thành các sợi hút
- Lưới dính (sticky nets): Các nhánh mọc ra được nối mạng với
nhau thành dạng lưới. Bên ngoài lưới cũng phủ đầy chất dính để
bẫy mồi. Sau đó một tế bào của lưới sẽ phát triển thành bọng nhỏ
bên trong con mồi và từ bọng mọc ra các sợi hút
- Vòng thắt ( constricting rings): Sợi nấm mọc ra các nhánh đặc
biệt với các vòng thắt cấu tạo bởi 3 tế bào. Khi mặt trong của các
tế bào này tiếp súc với con mồi thì không bào sẽ phình to lên và
thắt chặt con mồi lại. Sau đó sẽ mọc ra các nhánh xuyên vào con
mồi, rồi mọc ra các sợi hút nói trên
- Bào tử dính (Sticky spores): Có các bào tử phủ đầy chất dính
và có tác dụng bẫy mồi tương tự như các trường hợp nói trên.
Các chi nấm thường có sợi nấm bẫy mồi là Arthrobotrrys, Daxtylaria,
Daxtylella, Trichothecium… Một số loài nấm như Zoopage phanera,
Arthrobotrys anomala tiết ra chất dính trên toàn bộ mặt ngoài sợi nấm
và cũng có tác dụng bẫy mồi như các trường hợp nói trên.
4.5- Rễ giả (rhizoid) và Sợi bò (stolon):
Sợi bò là đoạn sợi nấm khí sinh không phân nhánh phát sinh từ các sợi nấm
mọc lên từ cơ chất, chúng có dạng thẳng hay hình cung. Phần chạm vào cơ
chất phát triển thành những rễ giả ngắn cắm vào cơ chất. Do sự phát triển của
sợi bò mà các nấm này lan rộng ra xung quanh, về cả mọi phía, kẻ cả trên
thành của hộp lồng (hộp Petri). Rễ giả và thân bò đặc trưng cho các nấm thuộc
chi Rhizopus (rễ giả mọc ngay chỗ cụm sợi nấm khí sinh), Abssidia (rễ giả
không mọc dưới chõ cụm sợi nấm khí sinh) . Rễ giả còn gặp ở nhiều loài nấm
thuộc các chi Rhizidiomyces, Sclerotinia…