Tóm tắt
Với đặc trưng riêng của mình, tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn đã góp phần làm nên diện mạo văn
hóa xứ Lạng cả về phương diện lịch sử, văn hóa và tôn giáo tín ngưỡng. Điều đó được thể hiện qua sự
có mặt của các di tích thờ Tứ phủ gắn với các trung tâm buôn bán của người Kinh dọc tuyến quốc lộ
1A, sự đa dạng về nguồn gốc của các ngôi đền, đặc biệt là sự thống nhất trong bài trí điện thần cũng
như trong thực hành nghi lễ hầu đồng. Là một trong những cái nôi của sự hình thành tín ngưỡng tứ
phủ ở miền núi, tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn mang đậm dấu ấn lịch sử, xã hội và văn hóa xứ Lạng, từ
đó góp phần quan trọng vào việc cố kết cộng đồng, tộc người và phát triển các loại hình du lịch ở Lạng
Sơn, nhất là loại hình du lịch tâm linh.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín ngưỡng Tứ Phủ trong văn hóa xứ Lạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45Số 31 (Tháng 3 - 2020)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TÍN NGƯỠNG TỨ PHỦ TRONG VĂN HÓA XỨ LẠNG1
NGUYỄN THỊ YÊN*
Tóm tắt
Với đặc trưng riêng của mình, tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn đã góp phần làm nên diện mạo văn
hóa xứ Lạng cả về phương diện lịch sử, văn hóa và tôn giáo tín ngưỡng. Điều đó được thể hiện qua sự
có mặt của các di tích thờ Tứ phủ gắn với các trung tâm buôn bán của người Kinh dọc tuyến quốc lộ
1A, sự đa dạng về nguồn gốc của các ngôi đền, đặc biệt là sự thống nhất trong bài trí điện thần cũng
như trong thực hành nghi lễ hầu đồng. Là một trong những cái nôi của sự hình thành tín ngưỡng tứ
phủ ở miền núi, tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn mang đậm dấu ấn lịch sử, xã hội và văn hóa xứ Lạng, từ
đó góp phần quan trọng vào việc cố kết cộng đồng, tộc người và phát triển các loại hình du lịch ở Lạng
Sơn, nhất là loại hình du lịch tâm linh.
Từ khóa: Tín ngưỡng Tứ phủ, đền thờ Tứ phủ, văn hoá xứ Lạng, Lạng Sơn
Abstract
With its own characteristics, the belief in the Four Realms in Lang Son province has contributed
to the cultural appearance of Lang area in aspects of history, culture and religions. This is reflected
in the presence of Four Realms worshiping monuments associated with the trading centers of Kinh
people along National Highway 1A, the diversity of the origins of temples, especially the unification
in the decoration of the sanctuary as well as in ritual practices in Hau Dong. As one of the cradles
of the formation of Four Realms belief in the mountain areas, the Four Realms belief in Lang Son
bears a strong impression of history, society and culture of Lang area, thereby making an important
contribution to the cohesion of community and ethnic groups and tourism development in Lang Son,
especially spiritual tourism.
Keywords: Belief of Four Realms, Four Realms temple, culture of Lang area, Lang Son
Trong truyền thuyết về Mẫu Liễu Hạnh thì Lạng Sơn là một trong số 5 địa phương (Nam Định, Lạng Sơn,
Hà Nội, Nghệ An, Thanh Hóa) được gắn với
sự xuất hiện của Mẫu Liễu Hạnh. Tác phẩm
Vân Cát thần nữ truyện của Đoàn Thị Điểm kể
rằng: Sau khi rời trần ở làng Vân Cát (Vụ Bản,
Nam Định), Mẫu Liễu Hạnh (lúc đó còn là Tiên
chúa) đã biến hóa thoắt ẩn thoắt hiện, phù hộ
cho cha mẹ, chồng con. Khi cha mẹ và chồng
đều khuất núi, con cái thành nhân, Tiên chúa
không còn vướng bận nên mới đi chu du thiên
hạ, “tìm nơi danh thắng, đem cảnh núi non làm
cảnh gia tiên”. Đó là nguyên cớ cho cuộc gặp
gỡ kỳ lạ giữa Tiên chúa và Trạng Bùng Phùng
Khắc Khoan cùng đoàn sứ bộ tại một ngôi
chùa cổ ở đất Lạng Sơn, nhờ đó mà ngôi chùa
cổ đó đã được tu sửa lại [8, tr.445-469].
Trong thực tế, Lạng Sơn là một trong số ít
tỉnh miền núi có sự hiện diện dày đặc các di
tích thờ Mẫu Liễu Hạnh gắn với tín ngưỡng Tứ
phủ, đồng thời là một trong những điểm đến
quan trọng trong các cuộc hành hương “về với
Mẫu” của các con nhang đệ tử. Bài viết bắt đầu
từ việc phác thảo những nét cơ bản của tín
ngưỡng Tứ phủ của Lạng Sơn, lấy đó làm cơ sở
để bàn về vai trò, vị trí của tín ngưỡng Tứ phủ
trong văn hóa xứ Lạng.
* PGS.TS, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam
Số 31 (Tháng 3 - 2020)46
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Diện mạo tín ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn
1.1. Di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn gắn với
các trung tâm buôn bán của người Kinh dọc
tuyến quốc lộ 1A
Di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn hiện nay bao
gồm rất nhiều di tích cũ (xây dựng trước năm
1945) và mới (chủ yếu xây dựng từ sau năm
2005 trở lại đây), có thể tạm phân thành hai
nhóm lớn:
(1) Nhóm di tích thờ Tứ phủ ở các huyện dọc
tuyến quốc lộ 1A lên đến Đồng Đăng: Phần lớn
các di tích được xây dựng vào những thời điểm
khác nhau từ trước năm 1945 với 04 cụm di
tích như sau:
- Cụm di tích thuộc huyện Hữu Lũng: gồm
10 di tích dọc theo quốc lộ 1A, thuộc các xã
Tân Thành, Hòa Lạc, Hòa Thắng, Hòa Sơn, thị
trấn Hữu Lũng. Hầu hết đều là di tích cổ, chỉ
có 01 di tích mới là đền Ba Nàng thuộc xã Cai
Kinh (xây dựng sau năm 1979). Trong đó có
nhiều ngôi đền nổi tiếng như đền Công đồng
Bắc Lệ, đền Chầu Bé, đền Đèo Kẻng (xã Tân
Thành), đền Chầu Lục, đền Quan Giám Sát (xã
Hòa Lạc), đền Suối Ngang, đền Cà Phê (xã Hòa
Thắng)
- Cụm di tích thuộc huyện Chi Lăng: Gồm
05 di tích thuộc thị trấn Chi Lăng và thị trấn
Đồng Mỏ. Nổi tiếng có đền Suối Lân (thị trấn
Chi Lăng), đền Chầu Bát và đền Chầu Mười (thị
trấn Đồng Mỏ).
- Cụm di tích thuộc thành phố Lạng Sơn:
Gồm 11 di tích cổ và 02 di tích mới. Trong 11 di
tích cổ, nổi tiếng nhất là các ngôi đền nằm cạnh
sông Kỳ Cùng như: đền Kỳ Cùng (phường Vĩnh
Trại), đền Cửa Đông và đền Cửa Bắc - Ngũ Nhạc
linh từ (phường Chi Lăng) 02 di tích mới là
đền Đức Thánh Trần (phường Tam Thanh, xây
dựng năm 2012) và đền Chúa Thượng Ngàn
(phường Chi Lăng, xây dựng năm 2010).
- Cụm di tích thuộc huyện Cao Lộc: Gồm 02
di tích đều thuộc thị trấn Đồng Đăng là đền Cô
Bé mới tôn tạo năm 2009 từ miếu Cô và đền
Mẫu Đồng Đăng, một ngôi đền cổ nổi tiếng
nằm sát biên giới Việt - Trung.
(2) Nhóm di tích thờ Tứ phủ ở các huyện khác:
Theo thống kê sơ bộ, hầu hết các huyện khác
trong tỉnh Lạng Sơn đều có di tích Tứ phủ, phần
lớn mới được xây dựng vào những năm gần
đây. Cụ thể: Huyện Lộc Bình: 02 di tích, trong
đó 01 di tích mới; huyện Tràng Định: 07 di tích,
trong đó 05 di tích mới; huyện Văn Lãng: 02 di
tích mới; huyện Bình Gia: 01 di tích mới; huyện
Bắc Sơn: 01 di tích mới2.
Có thể nhận thấy điểm chung của các nhóm
và cụm di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn là phần
lớn đều nằm trên trục đường quốc lộ 1A, gắn
với vị trí các ga xe lửa (Bắc Lệ, Đồng Mỏ, Đồng
Đăng) hoặc ở các trung tâm buôn bán đông
dân cư (thị trấn Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn,
thị trấn Thất Khê). Đây là những tụ điểm tập
trung đông người Kinh làm nghề kinh doanh
buôn bán. Như vậy, sự xuất hiện các ngôi đền
Tứ phủ ở Lạng Sơn có thể là gắn với sự có mặt
của người Kinh làm nghề buôn bán ở đây từ
những thời điểm khác nhau trong lịch sử. Điều
này có liên quan đến đặc điểm Lạng Sơn là
một tỉnh miền núi có con đường huyết mạch
thông thương biên giới, đặc biệt là từ sau khi
có tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn. Tương
truyền, tiền thân của đền Bắc Lệ là ngôi miếu
thờ Mẫu Thượng ngàn, quá trình Tứ phủ hóa là
vào khoảng đầu thế kỷ XX gắn với việc ra đời
nhà ga Bắc Lệ [12].
Các ngôi đền mới xuất hiện gần đây phần
lớn cũng là do các bà đồng người Kinh làm
nghề buôn bán công đức xây dựng, chẳng hạn
như các ngôi đền mới ở các xã Đề Thám và xã
Kháng Chiến của huyện Tràng Định. Các bà
đồng ở đây vốn là người Kinh gốc Thái Bình,
làm nghề buôn bán nhỏ3.
Một số huyện ở ven quốc lộ 1B như Bắc
Sơn, Văn Quan (Lạng Sơn) và huyện Võ Nhai
(Thái Nguyên) đều ít đền và không có các đền
Tứ phủ cổ. Điều này có thể được giải thích là
trước đây tuyến đường này nhiều núi non, đi
lại hiểm trở, ở đèo Tam Canh thường có cướp
nên thương lái người Kinh ít qua lại.
1.2. Các ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn
thường có nguồn gốc là di tích cổ của địa
phương
Đây là đặc điểm nổi bật của các di tích thờ
Tứ phủ ở Lạng Sơn. Phần lớn các di tích đều
47Số 31 (Tháng 3 - 2020)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
được tôn tạo hoặc xây dựng mới trên cơ sở
các ngôi miếu nhỏ của địa phương với những
nguồn gốc khác nhau. Cụ thể:
(1) Nhóm các ngôi đền kế thừa từ di tích thờ
thần tự nhiên: Điển hình là hệ thống các ngôi
đền cổ ở khu vực thành phố Lạng Sơn có
nguồn gốc là thờ thần sông Kỳ Cùng như đền
Kỳ Cùng, đền Cửa Đông. Các ngôi đền khác
như đền Cửa Tây, đền Cửa Bắc đều có tên gọi
khác là Ngũ Nhạc linh từ (đền Cửa Tây) hoặc
Ngũ Nhạc từ (đền Cửa Bắc) thì lại gợi nên
nguồn gốc thờ thần núi của nó, trong đó, đền
Cửa Bắc cũng thờ cả thần sông Kỳ Cùng. Ngoài
ra, ngôi đền Mẫu ở Đồng Đăng khởi thủy là
thờ Mẫu Cửu Trùng có lẽ có nguồn gốc từ tín
ngưỡng thờ Trời.
(2) Nhóm các ngôi đền thờ người có công: Các
ngôi đền này chiếm phần lớn trong số các đền
thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn, nhiều nhất là các ngôi
đền thờ Đức Thánh Trần. Chẳng hạn, đền Đức
Thánh Trần ở thị trấn Thất Khê có nguồn gốc
từ ngôi miếu nhỏ thờ Hưng Đạo Đại Vương
của dân phố chợ, sau được cơi nới rộng ra như
hiện nay. Hoặc theo truyền lại thì đền Đức
Thánh Trần ở phường Hoàng Văn Thụ (thành
phố Lạng Sơn) được xây lên từ sự tranh chấp
của người Kinh và người Hoa ở chợ Kỳ Lừa về
việc đứng cái đối với đền Tả Phủ4 Trong khi
đó, đền Đức Thánh Trần (thị trấn Bình Gia) có
nguồn gốc từ một ngôi đình làng. Cổ nhất
trong dạng đền này có lẽ là đền Công đồng
Bắc Lệ gắn với sự tích Bà chúa Thượng Ngàn
La Bình công chúa con Tản Viên Sơn Thánh,
có công âm phù Lê Lợi giết giặc ngoại xâm
[8, tr.222-223]. Tiếp đến là các đền Chầu Bát,
Chầu Lục, Chầu Mười, đều gắn với sự tích
thờ người có công đánh giặc. Ngoài ra, còn có
đền Vĩnh Trại ở thành phố Lạng Sơn thờ một
vị tướng thời Lê sơ có tên là Lê Công Chí, hoặc
đền Cà Phê (huyện Hữu Lũng) trong hậu cung
thờ mẫu bản địa có tên Đặng Thị Tươi, có lẽ là
một người có công với làng Tất cả các di tích
thuộc nhóm này đều phối thờ Mẫu Tứ phủ.
(3) Nhóm các ngôi đền/miếu thờ “Cô”: Những
ngôi đền/miếu này được lưu lại nguồn gốc
linh thiêng qua truyền thuyết, hoặc qua tên
gọi. Chẳng hạn, tương truyền đền Suối Ngang
(huyện Hữu Lũng) thờ một cô gái chết trẻ linh
thiêng, hoặc tên gọi một số ngôi đền thờ Cô
Chín Thượng Ngàn như miếu Cô Chín (huyện
Chi Lăng), đền Cô (phường Chi Lăng, thành
phố Lạng Sơn) đều gợi đến nguồn gốc thờ
các cô gái chết trẻ. Tương tự, đền Cô (thị trấn
Đồng Đăng) có nguồn gốc từ miếu Cô; đền Cô
Bơ (thị trấn Lộc Bình) có nguồn gốc là miếu Cô
Bơ. Gần đây có đền Ba Nàng (huyện Hữu Lũng)
tương truyền thờ ba cô gái trẻ linh thiêng chết
trong chiến tranh.
(4) Nhóm các ngôi đền được tôn tạo từ các
ngôi miếu thờ Thổ công và đình làng: Điển hình
là các ngôi miếu Thổ công ở thôn Bản Nằm (xã
Kháng Chiến), thôn Bản Cáu (xã Đề Thám) của
huyện Tràng Định với tên gọi là “miếu Chúa
Sơn Lâm”, sau khi Tứ phủ hóa thì thành nơi thờ
Chúa Thượng Ngàn. Ngoài ra, còn có trường
hợp đền Mẫu của thị trấn Thất Khê lúc đầu ở
rìa thị trấn, sau lụt lội được dân di dời sáp nhập
vào ngôi đình nhỏ và biến ngôi đình thành
đền Mẫu hiện nay. Vị Thành hoàng của ngôi
đình này là Quý Minh đại vương sau đó được
thờ chung vào bát hương Công đồng, khi làm
lễ vẫn được khấn là “Thành hoàng đại vương”.
(5) Các ngôi đền xây mới hoàn toàn: Số này
không nhiều, phần lớn là đền thờ Đức Thánh
Trần và đền Mẫu (như đền Đức Thánh Trần và
đền Mẫu của thị trấn Na Sầm, huyện Bình Gia
và đền Đức Thánh Trần ở phường Tam Thanh,
thành phố Lạng Sơn).
Có thể nhận thấy, sự đa dạng trong điện
thờ của các ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn
có nguyên do từ sự đa dạng về nguồn gốc của
các di tích này. Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho
rằng, rất có thể nhiều trong số 17 ngôi đền
thiêng được ghi trong Lạng Sơn Đoàn thành đồ
của Nguyễn Nghiễm đã được Tứ phủ hóa theo
thời gian. Chính vì vậy, việc giải mã nguồn gốc
các ngôi đền thờ Tứ phủ dọc quốc lộ 1A thực
sự có ý nghĩa đối với việc tìm về cội nguồn lịch
sử của các ngôi đền thiêng dọc tuyến đường đi
sứ của các đoàn sứ bộ trong quá khứ5.
Số 31 (Tháng 3 - 2020)48
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1.3. Điện thần Tứ phủ ở Lạng Sơn thể hiện
sự thống nhất của mô hình Phật - Tứ phủ -
Thánh Trần
Sự thống nhất kết tập Phật - Tứ phủ - Thánh
Trần là nét nổi bật trong bài trí điện thần của
hầu hết các ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn.
Theo đó, bài trí chung cho điện thần của các
ngôi đền Tứ phủ ở Lạng Sơn hiện nay là:
* Đối với các ngôi đền thờ Tam tòa Thánh
Mẫu: Phật (trên cao), Mẫu (trong cung cấm),
bên ngoài thờ Công đồng, Trần Triều và các vị
khác trong Tứ phú.
* Đối với các ngôi đền thờ Đức Thánh Trần:
Cung cấm gồm bát hương thờ Phật (trên cao) và
ban thờ Đức Thánh Trần, từ cung ngoài đổ ra thờ
Tam tòa Thánh Mẫu và các ban trong Tứ phủ.
Có thể nhận thấy, việc kết tập Phật và Mẫu
vào đền thờ Đức Thánh Trần là một nét riêng
của các di tích thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn.
* Đối với các ngôi đền có bản đền là các vị
thần khác trong Tứ phủ: Tùy vào quy mô, diện
tích của từng ngôi đền mà việc bài trí điện
thần có sự khác nhau, nhưng tựu trung, đền
nào cũng hội đủ 3 yếu tố Phật - Mẫu - Thánh
Trần. Chẳng hạn, ở đền Kỳ Cùng và đền Cửa
Đông, ngoài cung chính thờ bản đền (Quan
Lớn Tuần Tranh) người ta còn xây thêm 1 cung
bên cạnh thờ Phật và Tứ phủ. Với ngôi đền mới
thờ Chúa Thượng Ngàn như ở Bản Nằm (huyện
Tràng Định) thì bài trí theo trục dọc, trên cao
nhất là Phật, tiếp đến là Công đồng, Mẫu và
tượng chúa bản đền, ban Trần Triều được xây
thêm ở bên cạnh.
Trừ đền Bắc Lệ có thờ thêm Phật Thích Ca
còn hầu hết các đền Tứ phủ ở Lạng Sơn chỉ thờ
Phật Bà Quan Âm. Tùy từng ngôi đền mà có
nơi người ta đặt pho tượng Phật Bà nhỏ bằng
sứ (như ở miếu Bản Nằm), có nơi đặt ảnh, có
nơi đắp phù điêu (như ở đền Kỳ Cùng, đền Cửa
Đông), hoặc cũng có nơi chỉ cần đặt bát hương
(như ở một số đền thờ Đức Thánh Trần).
Có thể nhận thấy sự kết tập thờ Phật vào
điện thần Tứ phủ là hiện tượng khá phổ biến
ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, sự kết tập một
cách thống nhất Phật (Phật Bà) - Tứ phủ - Thánh
Trần lại là một nét riêng chỉ có ở hầu như tất cả
các ngôi đền thờ Tứ phủ của Lạng Sơn.
1.4. Sự đa dạng trong thực hành nghi lễ
hầu đồng
Ở Lạng Sơn hiện nay vẫn tồn tại các hình
thức khác nhau trong thực hành nghi lễ hầu
đồng. Điều đó liên quan đến lứa tuổi và điều
kiện kinh tế của người hầu đồng và nhất là
còn liên quan đến địa điểm của các ngôi đền.
Cụ thể, đối với những ngôi đền to nằm ở các
trung tâm buôn bán sầm uất, việc thực hành
nghi lễ hầu đồng giống như ở miền xuôi cả về
lễ lạt, phát lộc cũng như cung văn. Tuy nhiên,
đối với những ngôi đền nhỏ ở các huyện như
ở Thất Khê (Tràng Định), hiện vẫn tồn tại các
hình thức hầu đồng khác nhau:
* Hầu vo (hầu không cung văn): Đó là các
vấn hầu của lứa các bà đồng già. Do ở đây
hiếm cung văn nên khi có việc gấp, không kịp
đón cung văn, hoặc bởi ít kinh phí, nên để tiết
kiệm, họ thường hầu vo (còn gọi là hầu chay)
tức hầu không có cung văn. Thay vào đó, một
bà cầm trống gõ và hát ngân nga theo nhịp
các bài hát văn theo kiểu riêng. Với những vấn
hầu này, lễ lạt thường đơn giản, lộc phát được
đại trà cho tất cả mọi người tham dự theo một
quy ước ngầm đối với các giá6. Chi phí cho
một vấn hầu như vậy khoảng trên dưới 3 triệu
đồng. Đây là lối hầu phổ biến trước đây, nay
đã trở thành một dạng hầu theo kiểu “truyền
thống” của địa phương.
* Hầu có cung văn là người ở địa phương:
Hiện ở Thất Khê chỉ có một vị cung văn già từ
Tuyên Quang sang định cư. Ông này vừa hát
vừa tự đệm đàn nguyệt nhưng không thuộc
bài nên khi hát phải nhìn sách, thường chỉ
được các bà đồng địa phương mời hát khi
thật cần thiết. Thù lao phục vụ một vấn hầu
của ông này chỉ khoảng chừng trên dưới 500
nghìn đồng.
* Hầu có mời cung văn từ địa phương khác:
Đó là các vấn hầu “có đầu tư”, đối tượng là lớp
đồng trẻ, có điều kiện và cũng muốn “bằng
bạn bằng bè”, hoặc là của các đồng vãng lai
đến giải hạn cho người dân địa phương. Do ở
Thất Khê không có cung văn chuyên nghiệp
nên họ phải mời cung văn từ Cao Bằng xuống
hoặc từ Bắc Giang lên, chi phí cho cả nhóm
cung văn khoảng 5 - 6 triệu đồng, cộng với
49Số 31 (Tháng 3 - 2020)
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vàng mã (5 - 8 triệu đồng), công Tứ trụ, lễ lạt,
phát lộc,... khoảng trên dưới 20 triệu đồng.
Sự đa dạng trong thực hành nghi lễ hầu
đồng ở các ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn
cho thấy bức tranh đa dạng về thành phần các
ông bà đồng, qua đó phản ánh đặc điểm của
thực hành nghi lễ Tứ phủ hiện nay ở Lạng Sơn.
2. Vai trò, vị trí của tín ngưỡng Tứ phủ trong
văn hóa xứ Lạng
Với những đặc điểm cơ bản như trên, có
thể thấy, tín ngưỡng Tứ phủ đã góp phần quan
trọng làm nên diện mạo của văn hóa xứ Lạng
và trở thành một phần không thể thiếu của
văn hóa xứ Lạng.
2.1. Phản ánh lịch sử vùng đất xứ Lạng
Sự xuất hiện các di tích thờ Tứ phủ ở Lạng
Sơn trước hết gắn với lịch sử vùng đất xứ Lạng,
với vị thế là nơi có con đường huyết mạch
xuyên biên giới, từ lâu đã được biết đến là
tuyến đường đi sứ của các sứ bộ. Truyền thuyết
sứ thần Phùng Khắc Khoan gặp gỡ Liễu Hạnh
công chúa tại một ngôi chùa cổ ở Lạng Sơn
là phản ánh sự có mặt từ rất sớm các di tích
thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn dọc tuyến đường đi sứ
của các sứ thần. Cuốn Lạng Sơn Đoàn thành đồ
được biên soạn vào thế kỷ XVIII cho biết Lạng
Sơn khi đó có tới 17 ngôi đền thiêng. Theo lệ,
trên đường đi sứ, “Quan hộ tống cùng các phu
gánh được cấp tiền ở các kho bạc của trấn để
chuẩn bị lễ vật yết cáo ở các đền ven đường
đi như đền Quỷ Môn, đền Hổ Lao, đền Cao Bá,
miếu Hội đồng, đền Pha Long, đền Kỳ Cùng,
đền Phục Ba, đền Pha Duy, đền Mao Tường”
[5, tr.222-223]. Trong các ngôi đền kể trên,
đền Kỳ Cùng được cho là “rất linh thiêng” nên
“Phàm có các đoàn đi sứ với ngựa đến đây đều
phải vào yết cáo” [5, tr.224]. Như vậy, từ lâu
đền Kỳ Cùng đã nổi tiếng linh thiêng gắn với
hành trình đi sứ của các sứ thần.
Là vùng đất biên ải, nơi từng diễn ra những
cuộc giao tranh quyết liệt giữa quân đội của
hai bên trong suốt chiều dài lịch sử nên Lạng
Sơn cũng là nơi có nhiều đền miếu thờ các
tướng sĩ. Sự xuất hiện các ngôi đền Tứ phủ
như Chầu Lục, Chầu Mười, Chầu Bát,... gắn với
chiến tích đánh giặc ngoại xâm ở khu vực Hữu
Lũng, Chi Lăng, Đồng Mỏ chính là phản ánh
một phần thực tế lịch sử đó của vùng biên ải.
Mặt khác, như đã trình bày, sự có mặt các
ngôi đền thờ Tứ phủ ở Lạng Sơn còn gắn bó
chặt chẽ với sự ra đời tuyến đường sắt Hà Nội
- Lạng Sơn, qua đó phản ánh lịch sử thông
thương vùng biên mậu một thời. Theo truyền
lại thì tiền thân của đền Công đồng Bắc Lệ là
một am thờ nhỏ vốn là nơi thu gom các ngôi
miếu ở khu vực ga Bắc Lệ, còn sự linh thiêng
của am thờ được bắt đầu từ những điềm báo
linh ứng cho ông ký ga họ Nguyễn ở đây. Văn
bia đền Bắc Lệ khắc năm Khải Định thứ 4 (1919)
cũng cho biết, trước đó, đền Bắc Lệ chỉ là một
am thờ nhỏ. Năm 1919, được sự cung tiến của
ông Trần Khải Bân, một người Trung Quốc
sống ở Hải Phòng, cùng vợ là Nguyễn Thị Hiệp
và một số thanh đồng, đền Bắc Lệ đã được xây
dựng thành một ngôi nhà ba gian gồm 3 cung:
đệ nhất, đệ nhị, đệ tam (cung cấm) [8, tr.186].
Cuối cùng, với ý nghĩa là “chốn tổ”, tín
ngưỡng Tứ phủ ở Lạng Sơn còn góp phần
phản ánh lịch sử hình thành của tín ngưỡng Tứ
phủ của người Việt ở khu vực miền núi. Căn cứ
vào lịch sử các ngôi đền, có thể nhận biết được
sự lan tỏa của tín ngưỡng Tứ phủ với tư cách
là của tín ngưỡng thương nghiệp, tới những
vùng sâu, vùng xa của Lạng Sơn. Chẳng hạn,
có thể nhận ra hai giai đoạn hình thành và
phát triển chính của đền Công đồng Bắc Lệ:
Giai đoạn một (tạm lấy mốc từ năm 1902 trở về
trước) gắn với tín ngưỡng bản địa thờ bà chúa
bản đền Mẫu Thượng Ngàn La Bình công chúa,
thuộc tín ngưỡng nông nghiệp; giai đoạn hai
(từ sau năm 1902) gắn với sự kết tập hệ thống
Công đồng Tứ phủ, thuộc tín ngưỡng thương
nghiệp. Lạng Sơn là một trong những tỉnh
miền núi có sự giao thương buôn bán phát
triển từ sớm, đặc biệt là giao thương buôn
bán với nước ngoài. Vì vậy, việc tích hợp tín
ngưỡng Tứ phủ của người Việt vào tín ngưỡng
của địa phương để hình thành nên đền Công
đồng Bắc Lệ là phản ánh sự phát triển tất yếu
của kinh tế thương nghiệp của vùng đất này.
Và như vậy, ngoài ý nghĩa linh thiêng được
truyền tụng, đền Bắc Lệ còn phản ánh sâu sắc
lịch sử hình thành, lan tỏa tín ngưỡng Tứ phủ
Số 31 (Tháng 3 - 2020)50
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của người Việt ở miền núi nói chung và ở Lạng
Sơn nói riêng.
2.2. Phản ánh đặc điểm giao lưu hội nhập
của tôn giáo tín ngưỡng xứ Lạng
Với vị trí địa lý đặc biệt, xứ Lạng được các
nhà nghiên cứu đánh giá là nơi mà từ thời cổ
đại