Tình hình nhập cư trong nước và nước ngoài vào thành phố Đà Nẵng hiện nay

1. Đặt vấn đề Ở nước ta, vấn đề nhập cư đang ngày càng tăng và có tác động lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nhập cư chủ yếu là để tìm kiếm việc làm hay tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Vấn đề này đã trở thành một phần của quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức lớn cần phải giải quyết trong quá trình phát triển kinh tế và con người của một đất nước. Các hình thái nhập cư ở nước ta ngày càng đa dạng, phức tạp, quy mô nhập cư ngày càng gia tăng và nếu thực trạng này duy trì trong thời gian dài sẽ trực tiếp tác động mạnh mẽ, làm nảy sinh nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội. Đà Nẵng là đô thị trẻ phát triển năng động và đang dần trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục của cả miền Trung và Tây Nguyên. Sự phát triển của thành phố Đà Nẵng là động lực thu hút làn sóng di cư không chỉ trong nước mà còn đối với người nước ngoài đến với thành phố bằng môi trường làm việc, thu nhập và điều kiện tốt hơn so với một số địa phương khác của cả nước.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 42 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình hình nhập cư trong nước và nước ngoài vào thành phố Đà Nẵng hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 7Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng 1. Đặt vấn đề Ở nước ta, vấn đề nhập cư đang ngày càng tăng và có tác động lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nhập cư chủ yếu là để tìm kiếm việc làm hay tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Vấn đề này đã trở thành một phần của quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức lớn cần phải giải quyết trong quá trình phát triển kinh tế và con người của một đất nước. Các hình thái nhập cư ở nước ta ngày càng đa dạng, phức tạp, quy mô nhập cư ngày càng gia tăng và nếu thực trạng này duy trì trong thời gian dài sẽ trực tiếp tác động mạnh mẽ, làm nảy sinh nhiều vấn đề về kinh tế - xã hội. Đà Nẵng là đô thị trẻ phát triển năng động và đang dần trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục của cả miền Trung và Tây Nguyên. Sự phát triển của thành phố Đà Nẵng là động lực thu hút làn sóng di cư không chỉ trong nước mà còn đối với người nước ngoài đến với thành phố bằng môi trường làm việc, thu nhập và điều kiện tốt hơn so với một số địa phương khác của cả nước. 2. Tình hình nhập cư trong nước và nước ngoài vào thành phố Đà Nẵng 2.1. Tỷ lệ tăng dân số cơ học Việc tách Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đã thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa của Đà Nẵng trong thời gian qua. Theo báo cáo Kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở 1.4.2009, tính trên phạm vi toàn quốc, Đà Nẵng vẫn là nơi thu hút dân cư từ nơi khác đến học tập, làm ăn sinh sống, mỗi năm dân số tăng cơ học khoảng 15.000 người. TÌNH HÌNH NHẬP CƯ TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI VÀO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG HIỆN NAY ? ĐÀM THị VÂN DUNG* * ThS., Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Gia tăng dân số của Đà Nẵng sau năm 2011 chủ yếu là gia tăng tự nhiên. Song, theo bảng 1 thì tỷ lệ gia tăng cơ học từ năm 2010 trở về trước khá cao. Tỷ lệ tăng dân số cơ học bình quân giai đoạn 2007 - 2010 là 1,64%, trong đó năm 2010 có tỷ lệ cao nhất (1,89%). Như vậy, dân số Đà Nẵng từ trước 2010 tăng trưởng chịu ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố di cư, chủ yếu là nhập cư (bảng 1). Trong giai đoạn 2010 - 2015, tỷ suất nhập cư của thành phố phần lớn cao hơn tỷ suất xuất cư và mức chênh lệch này có xu hướng ngày càng giảm qua các năm. Chỉ tính riêng trong khoảng thời gian 1.4.2012 - 1.4.2013, Đà Nẵng có 9.635 người xuất cư trong khi có đến 15.375 người nhập cư (chiếm tỷ lệ lớn trong nhập cư là nguồn nhân lực từ Quảng Nam (40,7%)) (bảng 2). Từ khi triển khai Luật Cư trú đến ngày 14.6.2012, thành phố Đà Nẵng đã có 217.666 hộ (979.103 khẩu). Thành phố đã giải quyết thủ tục đăng ký thường trú cho 34.766 hộ (144.103 khẩu), trong đó có 11.500 hộ (42.354 khẩu) từ các tỉnh, thành phố khác; đăng ký Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 8 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Bảng 1. Tỷ lệ tăng dân số Đà Nẵng qua các năm Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tỷ lệ tăng chung (%) 2,61 2,51 2,96 3,15 2,53 2,14 2,12 2,11 2,10 Tỷ lệ tăng tự nhiên (%) 1,17 1,04 1,19 1,26 1,13 1,23 1,3 1,27 1,1 Tỷ lệ tăng cơ học (%) 1,44 1,47 1,77 1,89 1,4 0,91 0,81 0,84 1,0 Nguồn: Tổng cục thống kê qua các năm Bảng 2. Tỷ suất nhập cư và tỷ suất xuất cư của Đà Nẵng qua các năm Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Tỷ suất nhập cư (%) 29,8 22,8 17,5 15,5 14,0 11,6 Tỷ suất xuất cư (%) 3,4 7,9 6,3 9,7 13,8 6,7 Nguồn: Tổng cục Thống kê qua các năm Bảng 3. Tình hình nhập cư vào thành phố Đà Nẵng tính từ tháng 4.2012 đến tháng 4.2013 ĐVT: Người STT Địa phương Số người nhập cư STT Địa phương Số người nhập cư 1 Lào Cai 66 11 Bình Định 491 2 Thái Bình 244 12 Phú Yên 162 3 Thanh Hóa 198 13 Khánh Hòa 18 4 Nghệ An 814 14 Bình Thuận 7 5 Hà Tĩnh 1.075 15 Kon Tum 618 6 Quảng Bình 1.425 16 Gia Lai 305 7 Quảng Trị 558 17 Đắk Lắk 557 8 Thừa Thiên Huế 1.140 18 Hồ Chí Minh 885 9 Quảng Nam 6.252 19 Long An 5 10 Quảng Ngãi 537 20 Cần Thơ 18 Nguồn: Kết quả điều tra biến động dân số của Tổng cục Thống kê, 2013 tạm trú cho 50.331 hộ (392.246 khẩu), trong đó có 35.227 hộ (142.403 khẩu) và 76.464 học sinh, sinh viên từ các tỉnh, thành phố khác. Như vậy, tổng số nhân khẩu từ các tỉnh, thành phố khác đăng ký thường trú, tạm trú ở Đà Nẵng đã lên đến 184.757 người, tương đương 19% nhân khẩu toàn thành phố. Nghiên cứu độ tuổi di cư đến cho thấy dân số chuyển đến chủ yếu nằm trong độ tuổi từ 15 đến 30 tuổi, trong đó chủ yếu là dân số từ 20 đến 25 tuổi. Luồng di cư đến thông thường từ 2 mục đích: đi học và đi làm. Trước 25 tuổi người di cư nữ nhiều hơn về tỷ lệ và số lượng; có thể là do lao động nghỉ học sớm tham gia vào lực lượng lao động phổ thông, giúp việc nhà, công nhân xí nghiệp. Sau 25 tuổi thì ngược lại người di cư nam nhiều hơn nữ.1 Nguồn nhập cư vào thành phố Đà Nẵng chủ yếu từ khu vực Trung Bộ, 80,1% dân số nhập cư có nguồn gốc từ các tỉnh khu vực duyên hải miền Trung, còn lại là từ Tây Nguyên (8,1%), đồng bằng sông Hồng (4,6%). Nguồn nhập cư từ những tỉnh, thành phố lân cận chiếm tỷ lệ rất lớn (riêng Quảng Nam chiếm tỷ lệ 36,3%, còn 4 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Quảng Nam chiếm tỷ lệ 57,9%).2 Tính từ tháng 4.2012 đến tháng 4.2013, số lượng nhập cư vào Đà Nẵng là 15.357 người. Trong đó, Quảng Nam vẫn là địa phương có số người nhập cư vào Đà Nẵng nhiều nhất là 6.252 người (chiếm 40,7%).3 Việc người nhập cư không ngừng gia tăng dẫn đến việc tăng dân số cơ học gây ra áp lực về mật độ dân số cho các quận, huyện trên địa bàn thành phố (bảng 3). 2.2. Thời điểm nhập cư trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Sau năm 1997, tình hình kinh tế - xã hội của Đà Nẵng có nhiều thay đổi, phát triển theo chiều hướng Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 9Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Bảng 6. Thống kê người nước ngoài và Việt kiều tạm trú tại Đà Nẵng qua các năm Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 Người nước ngoài 213.896 134.972 150.735 188.418 289.250 608.357 Việt kiều 947 6.515 5.818 9.899 10.866 9.535 Tổng số 214.843 141.487 155.923 198.317 300.136 617.892 Nguồn: Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh, Công an thành phố Đà Nẵng gắn liền với quá trình đô thị hóa và là trung tâm giáo dục - đào tạo của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Hàng năm, Đà Nẵng đều thu hút một lực lượng lao động, sinh viên và học sinh từ các địa phương khác trong cả nước. Từ đó, dòng dân nhập cư tới thành phố ngày càng gia tăng. Theo báo cáo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 1.4.2009, thành phố Đà Nẵng sau khi trở thành thành phố trực thuộc Trung ương (1997) đã tăng thêm 100.000 dân (trong vòng 8 năm). Nhưng từ năm 2005, Đà Nẵng tăng thêm 100.000 dân chỉ trong vòng 5 năm. Bảng 4: Tỷ suất và số lượng của người nhập cư vào thành phố Đà Nẵng qua các năm Năm Dân số trung bình toàn thành phố (người) Tỷ suất nhập cư (‰) Số người nhập cư (người) 2005 805.700 8,6 6.929 2007 847.500 13,6 11.526 2008 868.800 12,0 10.425 2009 894.500 20,1 17.979 2010 926.800 29,8 27.618 2011 951.700 22,8 21.699 2012 985.700 17,5 17.250 2013 992.800 15,5 15.389 2014 1.007.700 14,0 14.108 2015 1.028.800 11,6 11.934 Nguồn: Tổng cục Thống kê qua các năm Theo thống kê của Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh thành phố Đà Nẵng, trong giai đoạn 1997 - 2000, có 6.267 người nước ngoài và 01 Việt kiều đăng ký tạm trú vào thành phố chủ yếu là với mục đích du lịch (chiếm 67,17%), tiếp theo là thương mại (13,91%), thăm thân (7,21%)... Đến giai đoạn 2001 - 2005, số lượng này tăng le6n đáng kể: 308.085 người nước ngoài và 06 Việt kiều đăng ký tạm trú vào Đà Nẵng với mục đích du lịch (65,15%), thăm thân (8,36%), thương mại (5,9), lao động (0,37%), hội nghị (0,2%), báo chí (0,03%) và mục đích khác (20,0%). Bảng 5. Thống kê người nước ngoài và Việt kiều tạm trú tại Đà Nẵng giai đoạn 1997 - 2000 và 2001 - 2005 Mục đích 1997 - 2000 2001 - 2005 Người nước ngoài Việt kiều Người nước ngoài Việt kiều Báo chí 2 0 104 0 Du lịch 4.210 0 200.720 0 Thương mại 872 0 18.178 0 Thăm thân 452 0 25.735 4 Hội nghị 16 0 616 0 Lao động 82 0 1.132 0 Mục đích khác 633 1 61.597 2 Tổng cộng 6.267 1 308.085 6 Nguồn: Phòng Quản lý Xuất nhập cảnh, Công an thành phố Đà Nẵng Một lý do cho sự gia tăng dân số người nhập cư trong khoảng thời gian này là vì giai đoạn 2006 - 2009 đã đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của khu vực dịch vụ với tốc độ tăng bình quân 19,03%/năm, cao gấp 2 lần so với hai giai đoạn trước và cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng bình quân của thành phố với điểm phần trăm đóng góp là 8,9 điểm vào 11,9% tăng trưởng GDP.4 Tuy nhiên, sau năm 2010, lượng người nhập cư bắt đầu được kiểm soát và giảm dần từ 29,8‰ (năm 2010) xuống còn 22,8‰ (năm 2011), 15,5‰ (năm 2013) và đến năm 2014 chỉ còn 13,8‰, thấp hơn tỷ suất xuất cư là 14‰. Nguyên nhân của hiện tượng này một phần là do chủ trương siết chặt, hạn chế người nhập cư vào thành phố Đà Nẵng (bảng 6). Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 10 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Từ bảng thống kê trên có thể thấy rằng, lượng người nước ngoài và Việt kiều nhập cư vào Đà Nẵng sau năm 2010 có giảm xuống nhưng có chiều hướng tăng nhẹ vào năm 2013, tăng nhanh vào năm 2014 và tăng đột biến vào năm 2015 với 608.357 người nước ngoài và 9.535 Việt kiều đã đăng ký tạm trú vào Đà Nẵng. Lượng người này phần lớn là khách du lịch mang quốc tịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Úc... 2.3. Động cơ nhập cư trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Hiện tượng di cư từ nơi này sang nơi khác có thể do hai nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ vấn đề kinh tế: cơ hội tìm kiếm việc làm ổn định, có thu nhập cao hơn công việc hiện tại. Đà Nẵng là địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong cả nước. Năm 2003, Đà Nẵng trở thành đô thị loại I đã kéo theo sau đó sự tăng trưởng tốt nhất của GRDP thành phố; bình quân giai đoạn 2004 - 2010 đạt 11,42%/năm. Đặc biệt, năm 2005, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt đến 14,21%, cao nhất trong cả giai đoạn. Giai đoạn 2011 - 2014, Đà Nẵng tiếp tục xây dựng, phát triển thành phố, thay đổi tích cực diện mạo đô thị, GRDP tăng bình quân 9,64%/năm. Năm 2013, tốc độ tăng trưởng của GRDP là thấp nhất, chỉ đạt 8,37%. GRDP bình quân đầu người (giá hiện hành) được nâng lên rõ rệt, năm sau cao hơn năm trước; năm 2015 đạt 56,78 triệu đồng, tương đương 2.704 USD, gần bằng 2 lần năm 2010. Hình 1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng GRDP thành phố Đà Nẵng Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đà Nẵng các năm 2000, 2004, 2008, 2009, 2014 Sự phát triển kinh tế đã thu hút một số lượng lớn Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 11Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng người từ ngoài thành phố đến Đà Nẵng làm ăn sinh sống. Số người này tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến, tham gia vào công việc lao động phổ thông trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ khắp thành phố. Một số không ít tự tổ chức kinh doanh nhỏ lẻ trong những lĩnh vực rất chuyên biệt. Thứ hai, nguyên nhân phi kinh tế như: chất lượng cuộc sống, an sinh xã hội tốt, y tế, giáo dục, dịch vụ phát triển... cũng tác động sâu sắc đến quá trình nhập cư. Từ khi trở thành thành phố trực thuộc TW (1997) đến nay, Đà Nẵng đã từng bước trở thành trung tâm y tế, giáo dục và đào tạo chất lượng cao của khu vực miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Mặt khác, Đà Nẵng cũng là điểm sáng trong lĩnh vực an sinh xã hội với nhiều chính sách đột phá, đã đạt được nhiều thành quả quan trọng. Đặc biệt phải kể đến đó là Chương trình “5 không”, “3 có”, Chỉ thị số 24-CT/TU và 25-CT/TU của Ban Thường vụ Thành Ủy Thành phố. Bên cạnh đó, công tác thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cũng được lãnh đạo thành phố quan tâm. Các cấp, ban, ngành đã triển khai thành công chính sách thu hút nhân tài của thành phố, cụ thể: Quyết định 47/2008/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án hỗ trợ đào tạo bậc đại học tại các cơ sở giáo dục trong nước và ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước dành cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố; Quyết định 17/2010/ QĐ-UBND về việc tiếp nhận, bố trí và chính sách ưu đãi đối với những người tự nguyện đến làm việc tại các cơ quan, đơn vị thuộc UBND thành phố Đà Nẵng. Đây chính là nguyên nhân thu hút một lượng lớn lao động, sinh viên, học sinh từ các địa phương khác về thành phố để tìm kiếm việc làm, lao động, học tập, dẫn đến những biến động về dân số của thành phố. 3. Tác động của quá trình nhập cư vào thành phố Đà Nẵng Hiện tượng nhập cư vào thành phố có những mặt tích cực nhưng cũng đặt ra những vấn đề khó khăn và phức tạp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng. 3.1. Tích cực - Nhập cư làm thay đổi kết cấu dân số, cụ thể là làm thay đổi cấu trúc dân số do độ tuổi người nhập cư tập trung trong khoảng 15 - 30 tuổi. Chính cấu trúc này góp phần tạo nên kết cấu “dân số vàng” cho Đà Nẵng từ nhiều năm nay. - Ở mức độ nhất định, nhập cư vào Đà Nẵng góp phần thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các lĩnh vực và các ngành nghề, dịch vụ và có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh tế của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Chính những người di cư tới Đà Nẵng để tìm kiếm việc làm đã góp phần bổ sung nguồn lực lao động cho thành phố, đặc biệt là thúc đẩy phát triển ngành kinh tế, dịch vụ. Ngoài ra, họ cũng tham gia vào phát triển khu vực phi kết cấu, góp phần thỏa mãn nhu cầu về các ngành nghề khác. - Người nhập cư thường có nguồn gốc từ nhiều tỉnh, nhiều vùng khác nhau đến các thành phố lớn mang theo những ngành nghề truyền thống khác nhau đã góp phần làm đa dạng nền kinh tế và văn hóa của thành phố Đà Nẵng. - Người dân nhập cư là nguồn đóng góp chính cho đô thị hóa, là cơ sở, động lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động. - Hiện tượng nhập cư góp phần thúc đẩy sự trao đổi về kinh tế, văn hóa, kỹ thuật giữa vùng đô thị và nông thôn, góp phần hình thành các khu đô thị mới Quá trình di dân - nhập cư tới nơi ở mới không đơn thuần là việc họ di chuyển người mà họ còn mang theo cả phong tục, nếp sống và văn hóa nơi họ đi. Chính vì vậy, nhập cư tạo ra sự đa dạng về văn hóa trong quá trình hình thành đô thị Đà Nẵng. 3.2. Tiêu cực Bên cạnh những mặt tích cực, tình trạng nhập cư vào Đà Nẵng cũng đặt ra những tác động tiêu cực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố. - Nhập cư làm thay đổi mức tăng trưởng và sự phân bổ dân cư do người nhập cư và định cư thường tập trung vào những khu vực nhất định phù hợp với điều kiện kinh tế, mục đích di cư. - Vấn đề nhập cư làm thay đổi các yếu tố về hôn nhân, sự thay đổi tỷ số giới tính. Dân số nhập cư đến Đà Nẵng trong thời gian qua bị lệch nhiều về phía nữ. Tỷ số giới tính dân số nhập cư bị chênh lệch nhiều tại tất cả các lứa tuổi. - Tình trạng nhập cư gây quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở. Các khu nhà ở, công trình công cộng mới xây dựng mặc dù tăng nhanh trong thời gian qua nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân đô thị. Các vấn đề này càng trở nên trầm trọng hơn khi ngày càng có nhiều người nhập cư vào Đà Nẵng trong tương lai. Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng 12 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng - Theo một nghiên cứu về vấn đề di dân của TS. Đinh Văn Thông (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) chỉ ra rằng, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và điều đó cũng là tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa môi trường và sự gia tăng dân số.5 Những mâu thuẫn đó đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân thành phố: + Chất thải sinh hoạt, mức gia tăng dân số quá nhanh hiện nay luôn gắn với việc ô nhiễm môi trường và gây bất lợi cho hệ sinh thái. Dân số tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng xử lý chất thải chưa đáp ứng được đang đặt ra vấn đề lớn về tình trạng ô nhiễm môi trường của thành phố. + Nước sinh hoạt, mặc dù thành phố đã có những cải thiện về hệ thống cấp nước nhưng lượng nước sạch bình quân trên đầu người của thành phố vẫn không tăng vì dân số tăng nhanh. Hiện nay, một số mạch nước ngầm của thành phố cũng bị ô nhiễm do khai thác quá tải và không tuân thủy quy trình công nghệ khai thác. - Tình trạng di dân còn có nguy cơ gây ra tình trạng mất trật tự công cộng cho thành phố và gia tăng sức ép về quản lý các cấp chính quyền. 3. Kết luận Tốc độ đô thị hóa nhanh sẽ thu hút nguồn nhập cư mạnh mẽ là quá trình tất yếu, tự nhiên đối với mọi quốc gia. Tuy nhiên, đô thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ là nguyên nhân gây ra những hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển bền vững của đô thị. Vì vậy, áp dụng các biện pháp hành chính kết hợp với các giải pháp kinh tế - xã hội để quản lý dân cư là việc làm cần thiết của mỗi đô thị. Đ.T.V.D. cHÚ THÍcH 1 Nguyễn Bá Sơn - Nguyễn Thị Hạ Vy, “Một số vấn đề về quản lý dân cư ở khu vực trung tâm thành phố Đà Nẵng”, Phát triển kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, Số 31/2012. 2 Báo cáo kết quả Điều tra dân số và nhà ở 1.4.2009. 3 Tỷ lệ được tính dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2013 đã được minh họa ở bảng 3. 4 Trần Như Quỳnh - Ông Nguyên Chương, “Một số giải pháp phát triển khu vực dịch vụ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Phát triển kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Số 11-12/2010. 5 TS. Đinh Văn Thông, "Di dân ngoại tỉnh vào thành phố Hà Nội - Vấn đề đặt ra và giải pháp", Hội thảo Khoa học quốc tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội: Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình.