Tình hình tài chính Mỹ trong những năm gần đây

2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động.  2007: Các ngân hàng lớn lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này. Đây là những dấu hiệu khủng hoảng đầu tiên. +Năm 2007, ngân hàng IndyMac lỗ 614 triệu USD. +Fannie Mae khoản lỗ 3,6 tỷ USD trong quý 4/2007, là một sự đảo ngược so với khoản lãi 826 triệu USD trong quý 1/2007.

pdf63 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2205 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình tài chính Mỹ trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 CHƢƠNG I TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH MỸ TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY I.1. Giai đoạn trƣớc năm 2008  2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức báo động.  2007: Các ngân hàng lớn lần lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này. Đây là những dấu hiệu khủng hoảng đầu tiên. +Năm 2007, ngân hàng IndyMac lỗ 614 triệu USD. +Fannie Mae khoản lỗ 3,6 tỷ USD trong quý 4/2007, là một sự đảo ngược so với khoản lãi 826 triệu USD trong quý 1/2007. +Tháng 12-2007, Bear Stearns công bố mức lỗ quí 4-2007 là 854 triệu đô la, tương đương 6,9 đô la/cổ phiếu; đồng thời thất thoát 1,9 tỉ đô la đầu tư vào cổ phiếu cầm cố. +1/8/2007, hai quỹ phòng hộ (hedge fund) của Bear Stearns, một trong những tập đoàn môi giới chứng khoán và ngân hàng đầu tư hàng đầu của Phố Wall, tuyên bố phá sản. +15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11. Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Theo báo chí, Mỹ có khoảng 6.000 tỷ cho vay địa ốc, trong đó 2.000 tỷ là dưới chuẩn. Khoảng 700 tỷ dưới chuẩn hiện là do hệ thống ngân hàng Mỹ nắm giữ trong tổng tích sản là 11 ngàn tỷ, phần còn lại là các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và nước ngoài nắm giữ. Riêng Ngân hàng Mỹ nếu các khoản cho vay dưới chuẩn mất hết thì vốn tự có cũng sẽ gần bằng không. Bảng 1: Bảng cân đối tài sản ngân hàng Mỹ vào cuối tháng 12 năm 2007 Tích sản (asssets) Tiêu sản (liabilities) Cho vay 6,8 Tiêu sản (liabilities) 10,7 Chứng khoán 4,8 Vốn tự có (equity) 0,9 Trong đó dưới chuẩn 0,7 Tổng tích sản 11.6 Tổng tiêu sản 11,6 I.2. Diễn biến khủng hoảng tài chính Mỹ trong năm 2008 Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Theo Moody‟s Economy.com, từ tháng 8 năm ngoái tới đầu tháng 8 năm nay, các định chế tài chính toàn cầu đã thua lỗ tổng số tiền khoảng 925 tỷ USD vì khủng hoảng tín dụng, tương đương 3% tổng tài sản của họ. Trong số này, trầm trọng nhất là khoản thua lỗ có thể lên tới 525 tỷ USD liên quan đến các khoản cho vay địa ốc.  11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.  17/3/2008: Bear Stearns, ngân hàng lớn thứ năm ở Wall Street, mới năm ngoái có giá khoảng 18 tỉ đô la phải bán cho JP Morgan Chase với giá 2 đô la/cổ phiếu so với giá 172 đô la/cổ phiếu đầu năm 2007. Fed đứng đằng sau cho vay 29 tỉ đô la để bảo lãnh các khoản nợ khó đòi. Mức giá xấp xỉ 240 triệu USD mà JPMorgan trả cho Bear Stearns bao gồm cả tòa nhà trụ sở cao chọc trời của tập đoàn này tọa lạc trên Đại lộ Madison.  11/7/2008: Ngân hàng IndyMac Bancorp với tài sản 32 tỉ bị đặt dưới quyền kiểm soát của Fed, sau đó tuyên bố phá sản. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày  6/9/2008: Fed nắm quyền kiểm soát Fannie Mae và Freddie Mac, hai tập đoàn bảo lãnh tín dụng địa ốc lớn nhất Mỹ.  11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.  14/9/2008: Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 +Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. +FED bơm 70 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng của Mỹ.  15/9/2008: +Ngân hàng đầu tư lớn thứ 4 của Mỹ, Lehman Brothers 158 lịch sử, có vốn cổ phần khoảng 28 tỷ USD, có 26 ngàn nhân viên, quản lý lượng tài sản 600 tỷ USD, đã tuyên bố phá sản. Đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ. +Merrill Lynch, ngân hàng đầu tư có gần 100 năm lịch sử, 60 ngàn nhân viên, quản lý tổng tài sản 1,6 ngàn tỷ USD, lo sợ số phận tương tự Lehman Brothers. Với khoản nợ 900 tỷ, sau khi tuyên bố lỗ 40 tỷ đô la, tự cứu bằng cách phải bán cho Bank of America Corp với giá 50 tỉ đô la . +American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố. +FED tiếp tục bơm thêm 70 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng của Mỹ. Thêm vào đó, FED cũng cung cấp cho thị trường những khoản vay trực tiếp bằng tiền mặt và trái phiếu kho bạc.  16/9/2008: +FED đã quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản USD ở mức 2% trong tương lai gần. +Fed đồng ý cho AIG vay 85 tỉ đô la đổi lại quyền nắm giữ 80% cổ phần của hãng bảo hiểm này. FED đã cứu AIG, công ty bảo hiểm lớn nhất Mỹ và thế giới, có tài sản 1,1 ngàn tỷ USD, 74 triệu khách hàng ở 130 nước trên thế giới và 116 ngàn nhân viên, khỏi bờ vực phá sản. Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 +Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD. Theo số liệu của Bloomberg, tới thời điểm 16/9/2008, khủng hoảng tín dụng đã khiến ngành tài chính thế giới thiệt hại khoảng 515 tỷ USD. Và để “chữa bệnh”, ngành này đã phải huy động số tiền 362 tỷ USD.  17/09/2008: +Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; +SEC công bố luật mới để ngăn chặn hành vi bán khống vô căn cứ “naked short-selling”.  18/9/2008: Fed cùng 5 ngân hàng trung ương của các nước phát triển (ECB của Châu Âu, Thụy Sỹ, Nhật, Anh, Canada) bơm 180 tỉ đô la để tháo băng tín dụng ngân hàng.  19/9/2008: SEC đã tạm thời cấm nghiệp vụ bán khống với 799 loại chứng khoán..  20/09/2008: Chính phủ Mỹ tuyên bố một kế hoạch tổng thể để cứu hệ thống tài chính, gồm một chương trình mua lại các khoản vay thế chấp xấu với chi phí ước tính lên đến 700 tỉ đô la.  21/09/2008: +Hai ngân hàng đầu tư độc lập còn lại là Morgan Stanley và Goldman Sachs chuyển đổi mô hình hoạt động sang tập đoàn ngân hàng tổng hợp (bank holding company) đã kết thúc một giai đoạn lịch sử hoàng kim của Phố Wall với mô hình ngân hàng đầu tư độc lập (financial holding company). Phố Wall giờ đây Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 đã thuộc về tay FED. Cuộc tranh giành quyền lực ảnh hưởng của FED và SEC đối với Phố Wall vốn dai dẳng lâu nay, đã đến hồi kết thúc. +Văn phòng Giám sát tiết kiệm (OTS) của Mỹ đóng cửa ngân hàng Ameribank (theo FDIC, có tổng tài sản 115 triệu USD và lượng tiền gửi của khách hàng là 102 triệu USD), đánh dấu vụ ngân hàng thương mại phá sản thứ 12 trong năm 2008 ở nước này.  25/09/2008: +Với tài sản 307 tỷ USD, Washington Mutual Inc (WaMu)- Ngân hàng thương mại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ có lịch sử 119 năm và 2.300 chi nhánh tại 15 bang đã bị phá sản. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản cho JPMorgan Chase với giá 1,9 tỷ USD. Có thêm WaMu, JPMorgan Chase sẽ có tổng cộng 5.400 văn phòng với 900 tỷ USD tiền gửi trở thành ngân hàng thương mại lớn nhất nước Mỹ xét về số lượng tiền gửi của khách. +Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.  29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.  1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD… Kết luận: Tính tới thời điểm này, cuộc khủng hoảng đã khiến: +Ngân hàng đầu tƣ Lehman Brothers phá sản. +Ngân hàng đầu tƣ Bear Stearns và Merrill Lynch bị bán lại. +Ngân hàng đầu tƣ Goldman Sachs và Morgan Stanley buộc phải chuyển đổi mô hình kinh doanh sang tập đoàn ngân hàng đa chức năng. +Fannie Mae, Freddie Mac và AIG bị Chính phủ Mỹ tiếp quản. +Thêm vào đó, cùng với vụ phá sản của WaMu, số ngân hàng thƣơng mại của Mỹ lâm vào cảnh phá sản đã lên tới 13. +Trong cuộc khủng hoảng đang diễn ra, trƣớc vụ phá sản của WaMu, phải kể đến vụ phá sản của IndyMac với tài sản 32 tỷ USD. FDIC cũng đã tiếp quản ngân hàng này hồi tháng 7 vừa qua.  Cuộc khủng hoảng này không chỉ khiến ba ngân hàng đầu tư ở Phố Wall là Bear Stearns, Lehman Brothers và Merrill Lynch tan rã, mà còn tác động rất mạnh tới các đối tượng khác trong ngành tài chính Mỹ. Từ đầu năm tới nay, đã có 13 ngân hàng thương mại ở Mỹ phá sản, đồng thời, khủng hoảng cũng không “tha” các công ty bảo hiểm, nhất là AIG. Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 CHƢƠNG II NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ II.1. Cho vay dƣới chuẩn: Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn hoạt động cho vay có phần dễ dãi và ồ ạt được gọi là “cho vay dƣới chuẩn” - của các ngân hàng đối với người vay tiền mua nhà trả góp với hy vọng sau đó bán đi để kiếm lời. Cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending) là hình thức cho vay rất phổ biến, đặc biệt tại Mỹ. Thuật ngữ “dưới tiêu chuẩn - subprime” ở đây liên quan đến vị thế tín dụng của người vay. Theo cẩm nang hướng dẫn của Bộ Tài chính Mỹ năm 2001: “Những người đi vay dưới tiêu chuẩn thường có quá khứ tín dụng yếu kém như thường có những khoản thanh toán quá hạn, và có thể có những vấn đề nghiêm trọng như phải ra toà, phá sản. Họ cũng có thể có khả năng thanh toán thấp xét trên những chỉ số như điểm tín dụng, tỷ lệ nợ trên thu nhập, hoặc một số tiêu chí khác…”. Không có một tài liệu chính thức nào quy định cụ thể về người đi vay dưới tiêu chuẩn nhưng ở Mỹ hầu hết những người vay này có điểm tín dụng thấp hơn 620, chiếm gần 25% dân số Mỹ. Do uy tín của người vay thấp và tình hình tài chính không mấy sáng sủa nên nhìn chung các khoản vay dưới tiêu chuẩn có lãi suất cao hơn lãi suất thị trường và điều này lại càng làm tăng thêm khó khăn tài chính cho người vay, đặc biệt khi lãi suất thị trường gia tăng. Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 (1) Ngân hàng cho vay mua nhà (1) Ngân hàng bán trái phiếu (2) Người mua nhà trả nợ ngân hàng (2) Ngân hàng cho vay mua nhà  dòng tiền (3) Người mua nhà trả nợ cho ngân hàng (4) NH thanh toán cho người sở hữu Trước đây, người dân Mỹ muốn vay nợ ngân hàng để mua nhà trả góp phải đặt cọc ít nhất 10-20% giá trị ngôi nhà, đồng thời chứng minh khả năng thanh toán của mình. Phần 80-90% giá trị còn lại của ngôi nhà sẽ được ngân hàng cho vay và người mua có nghĩa vụ trả góp hàng tháng trong vòng 15-30 năm tùy theo khả năng tài chính của họ song không vượt quá mức an toàn là 1/3 mức thu nhập Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 trước thuế. Các ngân hàng Mỹ thường cho vay nếu số tiền trả góp hàng tháng (kể cả thuế và tiền bảo hiểm ngôi nhà) không vượt quá 28% và nếu cộng thêm các khoản nợ khác thì không vượt quá 36% thu nhập hàng tháng. Ngoài ra các ngân hàng còn căn cứ vào điểm tín dụng của người đi vay với ngưỡng tín dụng trung bình là 620. Thông thường, cho vay cầm cố mua nhà đất do các ngân hàng và các công ty chuyên trách thực hiện, nhưng do nhu cầu tăng rất cao nên rất nhiều định chế tài chính khác cũng tích cực tham gia hoạt động môi giới cho vay mua nhà để lấy tiền hoa hồng- thường là 6% giá bán nhà do người bán nhà phải trả và thu các khoản phí liên quan tới hợp đồng, theo đó, các điều kiện cho vay càng được nới lỏng. Chẳng hạn, một sản phẩm cho vay trả góp mới phổ biến có tên là khoản vay thế chấp với lãi suất có điều chỉnh ARM (Adjustable Rate Mortgage) có lãi suất trong 5 năm đầu rất thấp, chỉ khoảng 2% trên lãi suất chính thức, sau đó sẽ được điều chỉnh lại với lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, do giá nhà đất tăng nên các công ty môi giới thường chỉ yêu cầu đặt tiền cọc thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn 20/80, thậm chí chỉ khoảng 0-5% để khuyến khích người mua vì cho rằng nếu người mua không trả được tiền góp hàng thàng thì có thể lấy nhà đem ra phát mại vẫn lãi. Trong giai đoạn 2004-2006, cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn chiếm khoảng 21% tổng các khoản vay thế chấp, tăng so với mức 9% giai đoạn 1996- 2004, trong đó chỉ tính riêng năm 2006 tổng trị giá các khoản vay thế chấp dưới tiêu chuẩn lên đến 600 tỷ USD, bằng 1/5 thị trường cho vay mua nhà của Mỹ. Sự phát triển mạnh của hình thức cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn đi kèm với sự bùng nổ thị trường nhà đất của Mỹ là hệ quả của việc lãi suất giảm xuống mức thấp kỷ lục, các tiêu chuẩn cho vay nới lỏng và hội chứng “thích mua nhà” của dân Mỹ. (xem biểu đồ 1) Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Biểu đồ 1: Tăng trƣởng cho vay dƣới tiêu chuẩn ở Mỹ (1994-2006) Nguồn: Fed Năm 2001 đánh dấu sự hình thành của bong bóng nhà đất trên thị trường Mỹ sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ 11 lần giảm lãi suất từ mức 6,5% xuống mức 1,75% nhằm vực dậy nền kinh tế đang suy thoái. Bong bóng nhà đất kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005, lãi suất thấp đã khuyến khích người dân mua nhà từ nguồn vay cầm cố, đẩy giá nhà liên tục leo thang, tăng 10% năm 2002 và tăng bình quân trên 25%/năm giai đoạn 2003-2005. Lãi suất lúc ấy lại rất thấp nên mua xong, cứ cho thuê để lấy tiền trả góp ngân hàng, được giá là bán lại, lấy lời. Sự bùng nổ giá Tăng trưởng cho vay dưới tiêu chuẩn ở Mỹ (1994-2006) 0 200 400 600 800 Năm 0 5 10 15 20 25 30 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05 06 94 95 Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 nhà giai đoạn này là một yếu tố quan trọng đóng góp vào sự phục kinh tế của Mỹ do lãi suất giảm làm giảm giá trị các khoản thanh toán cầm cố hàng tháng của người dân trong khi giá nhà tăng giúp họ có được những khoản vay mới lớn hơn để chi tiêu tiêu dùng, thực hiện khẩu hiệu “đi mua sắm theo yêu cầu của Tổng thống và vì lòng yêu nước”, từ đó kích thích tăng trưởng. Thị trường lúc nào cũng chịu tác động của quy luật cung cầu. Khi việc mua nhà không phải vì nhu cầu chỗ ở mà sử dụng nó như một công cụ đầu tư thì chắc chắn sau một thời gian xây thêm nhà để bán, thị trường sẽ thừa nhà (xem biểu đồ 2). Biểu đồ 2 dưới đây cho thấy lượng cung nhà ở Mỹ tăng vọt bắt đầu từ nửa cuối năm 2005 như là kết quả của quá trình cho vay mua nhà quá “phóng khoáng” của các ngân hàng Mỹ. Biểu đồ 2: Lượng cung nhà ở Mỹ giai đoạn 2000-2007 (Nguồn: Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Bên cạnh đó, sự phục hồi kinh tế của Mỹ cùng với nguy cơ lạm phát gia tăng bởi cả những yếu tố từ cung, cầu đã thúc đẩy Cục Dự trữ liên bang Mỹ tăng lãi suất trở lại, đến tháng 8/2005 lãi suất liên ngân hàng định hướng của Mỹ (Fed Fund Rate) đạt mức 3,75%/năm và dự kiến còn tiếp tục tăng nên không còn là mức lãi suất hấp dẫn đối với người mua nhà. Bong bóng nhà đất bắt đầu xì hơi. Năm 2006 thị trường sụt giảm mạnh, tháng 8/2006, chỉ số xây dựng nhà của Mỹ giảm hơn 40% so với cùng kỳ năm trước, nhen nhóm lên nguy cơ khủng hoảng tín dụng trên thị trường cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn. Các chủ nhà đất lâm vào khó khăn tài chính do cùng với việc lãi suất tăng làm tăng giá trị hóa đơn thanh toán cho khoản vay cầm cố hàng tháng thì giá nhà giảm làm giá trị tài sản cầm cố giảm xuống thấp hơn mức tiền vay gốc để mua căn nhà. Tỷ lệ vỡ nợ của người vay tăng lên, đặc biệt là những người vay dưới tiêu chuẩn vốn thường xuyên ở trong tình trạng khó khăn tài chính, cùng với nó là sự gia tăng nhanh chóng của hoạt động xiết nợ từ các công ty cho vay. Năm 2007, giá nhà tiếp tục giảm, doanh số bán nhà chưa bao giờ “trượt dốc” như vậy kể từ năm 1989. Thị trường địa ốc Mỹ lại rơi vào thời kỳ đóng băng, người vay tiền để mua nhà bán kiếm lời lại không thể bán được nhà (xem biểu đồ 3), trong khi nhu cầu nhà ở lại giảm mạnh (xem biểu đồ 4), cứ như thế món nợ vay mua nhà bỗng tăng vọt. Đến lúc này các ngân hàng bắt đầu nhận thấy nợ xấu, nợ khó đòi tăng vọt. Số lượng nợ xấu và khách hàng vỡ nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào cảnh thua lỗ đáng sợ, thậm chí đệ đơn xin phá sản, trong đó có cả New Century- công ty cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn lớn thứ 2 của Mỹ. Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Biểu đồ 3: Doanh số bán nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 (Nguồn: Biểu đồ 4: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007 (Nguồn: II.2. Chứng khoán hóa các khoản nợ cho vay dƣới chuẩn Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Nhiều chuyên gia tài chính cho rằng phát minh giá trị nhất trên thị trường tài chính đầu thế kỷ XXI là việc chứng khoán hóa các khoản vay mua nhà thế chấp qua đó cho phép các tổ chức tín dụng tiếp cận thị trường tài chính để chia sẻ rủi ro và tăng tính thanh khoản của những hợp đồng cho vay. Tuy nhiên, cũng qua kênh chứng khoán hóa (Securitization) này với hai công cụ là chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp MBS (Mortgage Backed Securities) và trái phiếu có thế chấp CDO (Collateralized Debt Obligations) mà nhiều định chế tài chính trên thế giới đã bị “vạ lây” khi bong bóng bất động sản ở Mỹ “xì hơi”. Việc chứng khoán hóa này đã hình thành nên thị trường cho vay thế chấp thứ cấp SMM (Secondary Mortgage Market). * Quy trình chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Thị trường cho vay thế chấp sơ cấp PMM (Primary Mortgage Market) có thể coi là thị trường bán lẻ trên đó người đi vay trực tiếp ký hợp đồng với ngân hàng hay thông qua công ty công ty môi giới để vay tiền mua nhà và sử dụng ngôi nhà như là tài sản thế chấp. Tuy nhiên nếu tách biệt các hợp đồng cho vay khi đưa ra giao dịch trên thị trường thứ cấp thì lợi nhuận thu được sẽ không đủ để trang trải chi phí. Do đó, các tổ chức phát hành trên thị trường thứ cấp SMM đã kết hợp nhiều hợp đồng cho vay riêng lẻ thành một “rổ tài sản” và sử dụng như tài sản đảm bảo để phát hành MBS hay CDO trên thị trường thứ cấp. Để đảm bảo giá trị tài sản thế chấp trong “rổ tài sản”, tổ chức phát hành sẽ chuyển giao toàn bộ tài sản này sang bên thứ ba là Quỹ ủy thác (Trustee) chịu trách nhiệm quản lý và giám sát các tài sản đó. Khủng hoảng tài chính Mỹ Bản quyền thuộc về October 18, 2008 Trên thị trường thứ cấp có hai tổ chức có ảnh hưởng quyết định đến giá MBS và CDO khi phát hành là Tổ chức định mức tín nhiệm (Rating Agency) và tổ chức cung cấp dịch vụ đảm bảo tín nhiệm (Credit Enhancement Provider). Tổ chức định mức tín nhiệm sử dụng một số mô hình kinh tế phức tạp để đánh giá phản ứng các loại chứng khoán trong các kịch bản kinh tế đưa ra và qua đó xếp hạng các chứng khoán thành chứng khoán loại 1(AAA), chứng khoán loại 2 (AA- BB) và vốn cổ phần (không xếp hạng). Việc xếp hạng sẽ tác động tới lợi tức thu được của tài sản và qua đó tác động tới giá của chứng khoán. Để phát hành MBS ra công chúng thì bên cạnh việc xếp hạng định mức tín nhiệm, tổ chức phát hành còn phải sử dụng dịch vụ đảm bảo tín nhiệm tương tự như mua bảo hiểm cho MBS để đảm bảo giá trị của MBS và tránh rủi ro do biến động của các dòng tiền từ những tài sản sử dụng đảm bảo cho MBS. Đây là một công cụ hữu hiệu cho việc quản trị rủi ro liên quan tới MBS của các tổ chức phát hành. Ngoài ra trên thị trường thứ cấp còn có hai thành ph