Với nhận thức sâu sắc vềvai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm qua
Chính phủvà BộTài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụnày. Với sựra đời của công ty bảo hiểm
nhân thọ, chính thức đầu tiên ởViệt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sựquan tâm của các cơquan Nhà
nước tầm vĩmô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụbảo hiểm nhân thọgần ba năm, nhưng trong
thực tếbảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ởViệt Nam từrất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước năm 1954, ởmiền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một sốgia đình
đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọnày. Các hợp đồng bảo hiểm này
đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ởmiền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển khai một sốloại
hình bảo hiểm như“An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọtrọn đời), “Bảo hiểm
tửkỳthời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉhoạt động từmột đến hai năm nên các nghiệp vụ
bảo hiểm không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đềán “Bảo hiểm nhân thọvà việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào
lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như:
- Tỷlệlạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ đểchi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần tiết kiệm
rất ít.
- Chưa có điều kiện đểcông ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Công ty bảo hiểm lúc đó
chưa được phép sửdụng quỹbảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tưchưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệgiá công ty bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm, bảo vệquyền lợi cho người được bảo hiểm và khảnăng thanh toán của
công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụbảo hiểm nhân
thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, BộTài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo
hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”.Thực tếtriển khai nghiệp vụnày cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủgia đình bịmất mà chỉtính đến trong vòng 1
năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó
loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được nhận lại gì không?
Với thực tếtrên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tếxã hội Việt Nam trong những năm đầu
thập kỷ90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm
nhân thọvới hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từcuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình BộTài chính dựán thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu vềquản lý quỹbảo hiểm nhân thọ, BộTài chính đã ký quyết định số
568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọtrực thuộc Bảo Việt. Sựkiện này
đánh dấu một bước ngoặt mới trong sựphát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
44 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 1911 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình triển khai chương trình an sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Đề Tài:
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI
CHƯƠNG TRÌNH AN SINH
GIÁO DỤC TẠI CÔNG TY
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
PHẦN III - TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
29
I - MỘT VÀI NÉT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ 29
1. Giới thiệu chung về Công ty 29
2. Những thuận lợi khó khăn khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em tại
Công ty bảo hiểm nhân thọ
31
II - TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH AN SINH GIÁO DỤC
Ở CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ
34
1. Đánh giá chung về kết quả nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em 34
2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em trong quý I
năm 1999 tại Công ty Bảo hiểm nhân thọ
37
2.1. Công tác khai thác 37
2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu 37
2.3. Công tác quản lý hợp đồng 40
2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo 42
2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý 44
2.6. Công tác giám dịnh bồi dưỡng 47
2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư 47
III - MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGHIỆP VỤ AN SINH GIÁO DỤC
48
1. Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác 50
2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác 50
3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường 53
4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác 54
5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm 55
6. Một số kiến nghị khác 56
Kết luận 58
1
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người. Không ngừng cải
thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục
đích hàng đầu của chế độ xã hội ta. Phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và Nhà nước
ta khẳng định trong các kì đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, 7, 8 đã và đang
có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế nước ta. Sau hơn mười
năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã gặt hái
được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã
hội. Nên nền kinh tế nước ta dần dần khởi sắc và phát triển một cách vững
chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kéo dài,
sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế đang được điều chỉnh, đIều kiện sống của
nhân dân không ngừng được cảI thiện và nâng cao. Trong xu thế phát triển
toàn diện đó, ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra
đời, bảo hiểm nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ mang tính đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với
các nghiệp vụ bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều
loạI hình khác nhau như: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5-10 năm, An sinh
giáo dục...Sở dĩ em chọn đề tài:“An sinh giáo dục: Thực trạng và một số
biện pháp phát triển nghiệp vụ này ở công ty Bảo hiểm nhân thọ “ cho
chuyên đề thực tập của mình là vì những lý do sau:
- Mặc dù bảo hiểm nhân thọ ra đời rất sớm trên thế giới ( năm 1583,
ở Anh) và khônh ngừng phát triển ở khắp nơi, nhưng lại được triển khai rất
muộn ở Việt nam. Vì vậy, nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm các nước trên
thế giới để áp dụng vào thực tế triển khai ở nước ta là một đòi hỏi cấp bách
có ý nghĩa kinh tế lớn
- Do nghiệp vụ “ An sinh giáo dục “mới được triển khai ở nước ta, thêm vào đó chúng ta lại thiếu một hệ
thống luật đồng bộ trong bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng, nên khó tránh khỏi những hạn
chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra
giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiệp vụ bảo hiểm này có tính chất khác biệt rõ nét so với các nghiệp vụ bảo hiểm khác ở chỗ nó
không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty
phải trả một khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro xảy ra với khách hàng.
Do vậy công ty bảo hiểm nhân thọ cần có một chính sách đầu tư vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty.
- Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các
khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai “ thì chương trình “An
sinh giáo dục “ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm đối với các thế hệ đi sau.
Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến nghị
nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian tới.
2
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần I: Lý luận chung về bảo hiểm nhân thọ.
Phần II: Những nội dung cơ bản về nghiệp vụ An sinh giáo dục trong hệ thống bảo hiểm nhân thọ.
Phần III: Tình hình triển khai chương trình An sinh giáo dục tại công ty bảo hiểm nhân thọ.
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ.
a. Trên thế giới:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời và phát triển từ rất lâu trên thế giới. Hình thức bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra
đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi
thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó
giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên bảo hiểm
nhân thọ phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh mẽ,
cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ
3
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
thuật nên bảo hiểm nhân thọ đã có điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Với sự xuất hiện các phép tính
xác suất Pascal và Fermat thì sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ là một tất yếu khách quan.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng chỉ bán các hợp đồng bảo hiểm
cho các con chiên trong nhà thờ của họ.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công ty đầu tiên bán các hợp
đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo
hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ.
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những loại hình nhân thọ cơ
bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo
hiểm trợ cấp hưu trí, mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để đáp
ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội của từng quốc gia.
Người ta cũng thường có những điều khoản bổ sung trong đó phạm vi bảo hiểm là tai nạn hoặc bệnh tật,
ốm đau, các bệnh hiểm nghèo xảy ra trong thời hạn bảo hiểm của hợp đồng chính (là một trong bốn dạng
trên).
Trên thế giới, hiện nay doanh số của bảo hiểm nhân thọ chiếm trên 50% doanh số của ngành bảo hiểm.
Dưới đây là số liệu thể hiện tỷ trọng doanh số bảo hiểm nhân thọ ở các khu vực trên thế giới trong hai
năm 1990, 1996.
Bảng 1: Doanh số của bảo hiểm nhân thọ so với doanh số ngành bảo hiểm ở các khu vực
Đơn vị tính: %
Năm
Khu vực 1990 1996
Châu Á 33,8 75
Châu Âu 31,4 50
Châu Mỹ 34,8 43
Nguồn tài liệu: Tạp chí Tái bảo hiểm - 1996.
Trong đó, cho đến năm 1993, ở Đông Nam á tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD, doanh số
của bảo hiểm nhân thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8% , doanh số của bảo hiểm phi nhân thọ là 16 tỷ USD
chiếm 26,2%.
Có thể đưa ra đây một số ví dụ về sự phát triển bảo hiểm nhân thọ ở một số nước như sau:
Bảng 2: Phí bảo hiểm nhân thọ ở một số nước trên thế giới năm 1993.
Tên nước Tổng phí
bảo hiểm
(tr.USD)
Nhân
thọ (%)
Phi
nhân
thọ (%)
Phí BHNT
trên đầu
người(US/
1000người)
Tỷ lệ
BHNT
trên GDP
(%)
Bảo hiểm
phi nhân
thọ trên
GDP (%)
Hàn Quốc
Nhật Bản
Đài Loan
Singapor
Philipin
Thái Lan
Malaixia
Inđonêxia
Mỹ
Đức
36.050
320.143
9.886
1.666
1.238
2.127
1.989
79,66
73,86
68,77
62,42
59,43
53,64
46,45
20,34
26,14
31,23
37,28
40,57
43,36
53,55
651.201
1.909.870
325.311
358.620
11.294
19.470
48.125
8,68
5,61
3,14
1,89
1,38
0,92
1,43
2,21
1,98
1,43
1,14
0,82
0,80
1,65
4
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Pháp
Anh
1.233
522.468
107.403
84.303
102.360
30,25
41,44
39,38
56,55
64,57
69,75
58,56
60,62
43,65
35,43
1.974
838.223
524.138
826.320
1.141.450
0,26
3,41
2,25
3,80
7,00
0,60
4,82
3,46
2,82
3,85
Nguồn: Tạp chí Kinh tế phát triển - Đại học kinh tế quốc dân.
b.Tại Việt Nam:
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ, trong những năm qua
Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm
nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà
nước tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong
thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình
đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này
đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển khai một số loại
hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm
tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ
bảo hiểm không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào
lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu thường ngày, phần tiết kiệm
rất ít.
- Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Công ty bảo hiểm lúc đó
chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi trường đầu tư chưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ giá công ty bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm và khả năng thanh toán của
công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo
hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
- Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ tính đến trong vòng 1
năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó
loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được nhận lại gì không?
Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đầu
thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm
nhân thọ với hai loại hình mang tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công
ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký quyết định số
568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này
đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một vài người
trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi
vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả
thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết
trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
5
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham
gia bảo hiểm nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các
nước phát triển cũng như các nước đang phát triển.Ở châu Á, những năm
gần đây bảo hiểm nhân thọ phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức
năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho
sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi
suất cao.Theo Tài liệu của công ty Bảo Việt nhân thọ, năm 1996, ở châu Á,
tổng doanh thu phí bảo hiểm là 61,1 tỷ USD trong đó phí bảo hiểm nhân
thọ là 45,1 tỷ USD chiếm 73,8%. Ơ các nước phát triển có môi trường đầu
tư tốt, bảo hiểm nhân thọ phát triển rất mạnh mẽ.
Bảo hiểm nhân thọ giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp
phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo
dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia bảo hiểm
nhân thọ nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi
ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong
hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển
đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục
tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Muốn thực hiện được thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì nhân tố vốn đầu tư
là rất quan trọng. Vốn đầu tư chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay
nước ngoài. Theo kinh nghiệm của một số nước phát triển và tình hình kinh tế xã hội thực tế của Việt
Nam thì nhất thiết phải tạo nhanh nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế và phải coi đây là biện pháp
chính. Có tích luỹ từ trong nước thì mới tiếp nhận được nguồn vốn từ bên ngoài. Mà quĩ tích luỹ này
được hình thành chủ yếu từ tiết kiệm, để phát huy nguồn vốn này cần phải đẩy mạnh tiết kiệm, tạo khoản
vốn cần thiết để phát triển kinh tế.
Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn đầu tư phát
triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo điều tra, vốn trong dân không phải là
nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết: Nguồn vốn trong dân ước tính trong các năm :
- Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP.
- Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP.
- Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP.
Dự đoán từ nay đến năm 2000 tỷ lệ này đạt 15% GDP.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ
tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ
không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với
người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít
khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi.
Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có
giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm
nhân thọ hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang
huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng
người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách
6
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng lượng vốn mà công ty bảo hiểm nhân
thọ Việt Nam huy động được cũng là hết sức cần thiết trong điều kiện kinh
tế nước ta hiện nay. Nếu như đối với nghiệp vụ bảo hiểm khác thời gian
bảo hiểm thường ngắn, mức phí đóng thường là thấp thì ở nghiệp vụ " An
Sinh Giáo Dục " thời gian bảo hiểm dài, mức phí định kỳ cao. Điều này cho
thấy huy động vốn bằng cách tăng cường triển khai nghiệp vụ "An Sinh
Giáo Dục " là hết sức cần thiết đối với công ty bảo hiểm nhân thọ.
II - MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA BẢO HIỂM
NHÂN THỌ
1.Mục đích
Bảo hiểm nhân thọ là một sự đảm bảo và mang tính chất tương hỗ - đó là mục đích chính, và do đó
bảo hiểm nhân thọ mang tính chất xã hội rất lớn. Số tiền được trả cho thân nhân và gia đình người tham
gia bảo hiểm khi không may gặp rủi ro được bảo hiểm sẽ giúp những người thân chi trả những khoản chi
tiêu rất lớn như: tiền thuốc thang và bác sỹ, tiền ma chay, khoản tiền cần thiết để ổn định cuộc sống, chi
phí giáo dục con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Không ai muốn nghĩ tới cái chết, nhưng không ai biết nó đến lúc nào. Việc mua một hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ là thể hiện sự chu đáo của mình đối với gia đình. Và nếu như may mắn trong suốt thời hạn
bảo hiểm không có rủi ro thì người được bảo hiểm vẫn nhận lại được số tiền đã nộp cộng thêm lãi nhờ
hoạt động của công ty bảo hiểm. Nhiều khoản tiền nhỏ lúc đó cộng lại đã thành khoản tiền lớn để chi tiêu
cho những công việc lớn, hoặc như dành dụm cho con bằng cách mua hợp đồng “An sinh giáo dục” thì
khi đứa trẻ 18 tuổi đã có một khoản tiền để cấp vốn cho nó làm ăn hoặc chi phí cho nó tiếp tục đi học đại
học. Chi phí giáo dục - một vấn đề lớn trong ngân sách của mỗi gia đình hiện nay và càng trở nên nóng
bỏng trong tương lai.
So với các hình thức tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ có ưu điểm sau:
- Bảo hiểm nhân thọ là hình thức tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch. Khi đã quyết định mua
một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thì các khoản phí nhỏ đóng hàng tháng được coi như là các chi phí
thường xuyên như tiền ăn, tiền điện, tiền nước...và người đại lý chính là người thường xuyên nhắc nhở và
thu khoản tiền này.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗ trợ khó khăn về tài chính cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm
khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bằng một khoản tiền lớn ngay cả khi họ mới kịp tiết kiệm được một
khoản tiền rất nhỏ.
2 . Ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ
Cũng giống như các nghiệp vụ bảo hiểm khác , bảo hiểm nhân thọ có
vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống mỗi cá nhân , mỗi gia đình nói
riêng và của xã hội nói chung .
a.Đối với mỗi cá nhân , gia đình .
- Bảo hiểm nhân thọ thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia
đình đối với con cái hay những người phụ thuộc . Ngày nay, khi khoa học
kỹ thuật phát triển , các công nghệ hiện đại giúp cho cuộc sống tiện lợi hơn
, văn minh hơn nhưng những rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào
, nó cướp đi mạng sống của con người hoặc gây cho con người những
thương tật mà không thể phục hồi trở lại . Chính vì thế , trong xã hội văn
minh hiện nay vẫn có một thực trạng đáng buồn là nhiều gia đình trở nên
khó khăn , túng quẫn khi người trụ cột gia đình không may gặp rủi ro dẫn
tới mất mát hoặc giảm thu nhập. Do đó, nếu tham gia bảo hiểm nhân thọ thì
họ sẽ có một khoản tiền để chi trả, trang trải những chi phí như nằm viện ,
7
Chuyªn ®Ò thùc tËp B¶o hiÓm A-37
phẫu thuật , thuốc men , nợ nần , chi phí mai táng hoặc bù đắp một phần
những khoản thu nhập thường xuyên của gia đình bị mất hoặc bị giảm .
Vì thế , bảo hiểm nhân thọ góp phần giảm bớt