Tóm tắt. Hoạt động trải nghiệm được coi là một cấu phần quan trọng trong chương trình
giáo dục phổ thông Việt Nam 2018, được thiết kế từ cấp Tiểu học đến Trung học phổ
thông. Là môn học bắt buộc, hoạt động trải nghiệm xác định mục tiêu nhằm hình thành và
phát triển cho học sinh những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kĩ năng sống và
những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Nội dung hoạt động trải
nghiệm được thiết kế theo hướng tích hợp, hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng, linh
hoạt. Ở từng môn học, hoạt động trải nghiệm cũng được đặc biệt quan tâm. Giáo dục
thường xuyên là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, cùng thực hiện một chương
trình trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tuy nhiên, các Trung tâm giáo dục
thường xuyên có đối tượng học sinh, điều kiện dạy học với nhiều điểm khác biệt nên việc
tổ chức hoạt động trải nghiệm sẽ có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Cách thức tiến
hành hoạt động trải nghiệm cũng cần phải được tổ chức một cách linh hoạt để phù hợp với
thực tiễn mang tính đặc thù. Bài viết tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức hoạt động
trải nghiệm trong môn học lịch sử tại Trung tâm giáo dục thường xuyên, từ đó đề xuất các
biện pháp để tổ chức hiệu quả hoạt động trải nghiệm nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
286
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0049
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 286-295
This paper is available online at
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018
Nguyễn Thị Bích
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
:
Tóm tắt. Hoạt động trải nghiệm được coi là một cấu phần quan trọng trong chương trình
giáo dục phổ thông Việt Nam 2018, được thiết kế từ cấp Tiểu học đến Trung học phổ
thông. Là môn học bắt buộc, hoạt động trải nghiệm xác định mục tiêu nhằm hình thành và
phát triển cho học sinh những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kĩ năng sống và
những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Nội dung hoạt động trải
nghiệm được thiết kế theo hướng tích hợp, hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng, linh
hoạt. Ở từng môn học, hoạt động trải nghiệm cũng được đặc biệt quan tâm. Giáo dục
thường xuyên là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, cùng thực hiện một chương
trình trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tuy nhiên, các Trung tâm giáo dục
thường xuyên có đối tượng học sinh, điều kiện dạy học với nhiều điểm khác biệt nên việc
tổ chức hoạt động trải nghiệm sẽ có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Cách thức tiến
hành hoạt động trải nghiệm cũng cần phải được tổ chức một cách linh hoạt để phù hợp với
thực tiễn mang tính đặc thù. Bài viết tập trung phân tích thực trạng việc tổ chức hoạt động
trải nghiệm trong môn học lịch sử tại Trung tâm giáo dục thường xuyên, từ đó đề xuất các
biện pháp để tổ chức hiệu quả hoạt động trải nghiệm nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Từ khóa: hoạt động trải nghiệm, tổ chức, dạy học lịch sử, học sinh, Trung tâm giáo dục
thường xuyên.
1. Mở đầu
John Dewey (1859-1952) - nhà lí luận giáo dục có ảnh hưởng nhất của thế kỉ XX cho rằng nhà
trường có nhiệm vụ chuẩn bị những điều kiện cho trẻ em tự mình tạo dựng kiến thức cho chính mình
bằng các công cụ của chúng như đôi mắt, đôi tai, đôi tay, đôi chân, đặc biệt là tư duy. Trẻ em cần
được phát triển hết khả năng, sẵn sàng sử dụng mọi công cụ của chúng, đó chính là sự chuẩn bị
đích thực cho cuộc sống tương lai. Với cách nhìn như vậy, John Dewey đã đưa ra triết lí: “Việc
học của trẻ em phải đi từ trải nghiệm của chúng. Trải nghiệm vừa là nội dung vừa là phương
pháp Không có nội dung hoặc giá trị giáo dục hoặc giá trị bản thân mang tính tuyệt đối, bất
biến được áp đặt từ bên ngoài cho trẻ em. Mọi thứ đều phải do từng cá nhân trẻ em tự mình tìm
ra. Khi trẻ em tự mình trải nghiệm thì chúng mới tìm ra được giá trị của điều chúng trải nghiệm”
[1, tr.16]. Triết lí của John Dewey, tập trung vào ba vấn đề: i. Hoạt động trải nghiêm (HĐTN) là
cần thiết và việc học của học sinh (HS) nên bắt đầu từ HĐTN; ii. Trải nghiệm vừa được xem là
nội dung học tập vừa là phương pháp dạy học (PPDH) trong nhà trường phổ thông; iii. Tham gia
vào HĐTN, HS khẳng định được năng lực và giá trị của chúng. Triết lí của John Dewey đã có ảnh
rất lớn đến những nghiên cứu sau này của các nhà giáo dục về HĐTN.
Ngày nhận bài: 2/3/2020. Ngày sửa bài: 18/3/2020. Ngày nhận đăng: 25/3/2020.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Bích. Địa chỉ e-mail: bichnt@hnue.edu.vn
Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên...
287
Nghiên cứu về vai trò của HĐTN, Kurt Lewin [2] cho rằng học tập tốt nhất là được đặt
trong môi trường, ở đó kinh nghiệm của cá nhân là thành phần quan trọng để trải nghiệm. Carl
Rogers [3] phân tích: kiến thức chỉ có ý nghĩa khi nó được vận dụng vào thực tiễn, vai trò của
học tập qua trải nghiệm là rất quan trọng hướng tới cung cấp nhiều cơ hội cho HS tương tác với
các đối tượng học tập, với môi trường học tập. Học tập trải nghiệm tạo điều kiện cho cá nhân
tham gia, được đánh giá bởi người học, tạo các hiệu ứng rộng rãi đến người học. Susan Hart [4]
đưa ra một cách tiếp cận mới đầy thách thức để tăng cường học tập của trẻ em thông qua một
quá trình phản ánh được gọi là “tư duy đổi mới” để xem xét và phản ánh các trải nghiệm trong
lớp học. Marjorie Schiering [5] cho rằng HS thường thích cách học tập thông qua các hoạt động
mang tính tương tác, người dạy nên tập trung vào thiết kế các hoạt động vui nhộn để HS tham gia
vào quá trình tương tác với bạn bè, với giáo viên (GV). Sự cần thiết phải tổ chức cho HS tham gia
vào các HĐTN trở thành quan điểm được đưa vào trong triết lí cải cách giáo dục của nhiều quốc
gia. Tại Trung Quốc, Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh trong 4 tập sách xuất bản [6] đã nêu ra quan điểm và
kinh nghiệm quan trọng cho giáo dục ở các nước, trong đó đưa ra yêu cầu GV cần để HS tham gia
tích cực vào quá trình học tập, cần sử dụng nhiều biện pháp học tập gắn liền với thực tế.
Đề cập đến các hình thức HĐTN, các nhà giáo dục Mĩ đã xuất bản bộ sách được nhà xuất
bản Giáo dục dịch Việt Nam dịch năm 2011, gồm 4 cuốn: 1. “Các phương pháp dạy học hiệu
quả” [7]; 2. “Những phẩm chất của người giáo viên hiệu quả” [8]; 3. “Tám đổi mới để trở
thành người giáo viên giỏi” [9]; 4. “Nghệ thuật và khoa học dạy học” [10] chỉ ra HĐTN được
thực hiện thông qua các hoạt động thực hành, thực tế và nâng lên thành lí thuyết học tập trải
nghiệm nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Lí thuyết học tập dựa vào
trải nghiệm (Experiential Learning Theory - ELT) được David Kolb giới thiệu [11] cung cấp
một mô hình học tập dựa vào trải nghiệm để ứng dụng trong trường học, các tổ chức kinh tế và
hầu như bất cứ nơi nào con người được tập hợp với nhau. Mô hình này là một vòng tròn khép kín
gồm 4 giai đoạn: a. Kinh nghiệm cụ thể; b. Quan sát, đối chiếu và phản hồi; c. Hình thành khái niệm
trừu tượng; d. Thử nghiệm trong tình huống mới, cho thấy HĐTN là một phần quan trọng đối với
sự hình thành bất kì một giá trị nào của người học. Nó là sự tương tác giữa kiến thức mới hoặc
kinh nghiệm mới và kinh nghiệm đã có của người trải nghiệm.
Ở Việt Nam, khi triển khai đổi mới giáo dục theo Nghị quyết 29/NQTW, HĐTN đã trở
thành một môn học bắt buộc trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới 2018. Từ đây
các nghiên cứu về HĐTN đã được nhiều tác giả quan tâm. Phan Trọng Ngọ (2016) đã đi sâu
nghiên cứu về học tập trải nghiệm trong GDPT và trong đào tạo năng lực nghề cho sinh viên
Đại học sư phạm [12]; Nguyễn Hoàng Đoan Huy (2016) đã có những nghiên cứu mới về “Vận
dụng lí thuyết học tập trải nghiệm trong phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho GV- bài học kinh
nghiệm từ Ailen”[13] và “Định hướng vận dụng lí thuyết học tập trải nghiệm vào dạy học các
môn khoa học tự nhiên ở trường THCS”[14]; Nguyễn Thị Hằng (2017) làm rõ lí thuyết học tập
trải nghiệm và định hướng vận dụng vào tổ chức HĐTN sáng tạo [15]; Nguyễn Thanh Bình
(2017) đi vào nghiên cứu những yêu cầu trong thiết kế, tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiêm
[16]; Dương Dáng Thiên Hương (2017) [17], Nguyễn Thị Kim Dung và Trần Thị Tuyết Mai
(2017) [18] cũng có những bài viết xoay quanh chủ đề tổ chức HĐTN.
Trong dạy học lịch sử (DHLS) ở trường phổ thông Việt Nam, từ bộ giáo trình “Phương
pháp dạy học lịch sử” của các tác giả Hoàng Triều, Hoàng Trọng Hanh, Lê Khắc Nhãn [19] cho
đến những bộ giáo trình sau này tuy không dùng khái niệm HĐTN, nhưng đã khẳng định được
tinh thần và cốt lõi của việc tổ chức các HĐTN: “thực tiễn cuộc sống là một nguồn nhận thức
lịch sử, do đó, tổ chức cho học sinh thâm nhập thực tế xã hội không chỉ thực hiện nguyên lý
giáo dục của Đảng về gắn nhà trường với đời sống mà còn là một phương thức để nâng cao
chất lượng giáo dục” [20, tr.103]. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu chuyên khảo về hình thức tổ
chức dạy học cũng đưa ra quan điểm DHLS phải gắn bó, phục vụ trực tiếp cho cuộc sống thông
qua việc tăng cường các hoạt động tham quan, ngoại khóa, công tác công ích xã hội “tham gia
Nguyễn Thị Bích
288
công tác công tác công ích xã hội là một biện pháp quan trọng gắn lịch sử với cuộc sống” [21, tr.103].
Nhóm tác giả Tưởng Duy Hải, Hồ Thị Hương, Nguyễn Hồng Liên, Phạm Quỳnh [22] đã trình
bày cụ thể nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức HĐTN trong môn học lịch sử để phát triển
năng lực HS.
Điểm lại những nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về HĐTN và tổ chức
các HĐTN trong dạy học nói chung, DHLS nói riêng đã có nhiều tác giả và công trình nghiên
cứu. Tuy nhiên, việc tổ chức HĐTN trong DHLS ở các TTGDTX thì chưa có công trình nào đi
sâu nghiên cứu. Cho nên, đây là vấn đề mới và cần được quan tâm nghiên cứu để vận dụng tổ
chức các HĐTN trong DHLS tại các TTGDTX được tốt hơn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Hoạt động trải nghiệm và vai trò, ý nghĩa của nó trong dạy học lịch sử ở các
trung tâm giáo dục thường xuyên
Thuật ngữ “hoạt động trải nghiệm” xuất hiện lần đầu tiên ở Việt Nam trong bản “Dự thảo
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể sau năm 2015” của Bộ giáo dục và đào tạo. Đinh Thị
Kim Thoa [23] phân biệt thuật ngữ học đi đôi với hành, học thông qua làm và học từ trải nghiệm
sáng tạo trong trường học từ nghiên cứu mô hình và chu trình học từ trải nghiệm của David
Kolb. Tác giả đưa ra quan điểm rằng để phát triển sự hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác
động vào nhận thức của người học nhưng để phát triển và hình thành năng lực, phẩm chất thì
người học phải trải nghiệm Chương trình GDPT Việt Nam 2018 đã giải thích rõ:“HĐTN là
HS dựa trên sự huy động tổng hợp kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực giáo dục khác nhau để
trải nghiệm thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội, tham gia hoạt động hướng nghiệp và
hoạt động phục vụ cộng đồng dưới sự hướng dẫn tổ chức của nhà giáo dục, qua đó hình thành
những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và một số năng lực thành phần đặc thù của hoạt động
này như: năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích
ứng với hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp, năng lực thích ứng với những biến động
trong cuộc sống và những kĩ năng sống khác” [24, tr.28]. Từ quan niệm này, chúng tôi cho rằng:
“tổ chức HĐTN cho HS trong DHLS là quá trình GV định hướng nhiệm vụ, gợi ý cách thức hoạt
động cho HS, điều hành các hoạt động ấy bằng các PPDH tích cực, HS thực sự trải nghiệm để
đạt được mục tiêu, hình thành các phẩm chất và năng lực học tập lịch sử”.
Trong DHLS, nguyên lí “học phải đi đôi với hành” luôn phát huy vai trò chủ thể trong
nhận thức của HS, khắc phục cách học giáo điều, nhồi sọ. Tổ chức hoạt động học cho HS thông
qua trải nghiệm mang lại cho người học nhiều lợi ích. Tổ chức UNESCO tại Hội nghị thượng
đỉnh Liên hiệp quốc về Phát triển bền vững năm 2020 với chủ đề “Dạy và học vì một tương lai
bền vững” đã nhấn mạnh “giáo dục trải nghiệm” xem nó như là một triển vọng tương lai tươi
sáng cho giáo dục toàn cầu trong các thập kỉ tới, trong đó có Việt Nam. Vậy tổ chức HĐTN
trong môn học lịch sử mang lại cho HS lợi ích gì?. Tổ chức HĐTN có vị trí đặc biệt trong
Chương trình GDPT mới, có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với cả GV và HS. Trong DHLS, tổ
chức tốt HĐTN là môi trường để GV và HS đều thể hiện đúng năng lực của mình. Đối với HS,
học tập chính là quá trình mà trong đó kiến thức được tạo ra thông qua việc chuyển đổi kinh
nghiệm, trải nghiệm. HS không tiếp thu kiến thức của mình chỉ từ các GV mà thay vào đó, người
học thông qua quá trình trải nghiệm dựa trên các kinh nghiệm hiện có của bản thân để thu nhận
thông tin mới trong môi trường học tập thực tiễn và kiểm tra nó lại bằng kinh nghiệm của mình. Học
tập trải nghiệm vì thế là con đường để HS hoàn thiện năng lực của bản thân. Cho nên, GV cần sử
dụng nhiều các hình thức trải nghiệm để đáp ứng sự đa dạng về trí tuệ của HS. Thông qua trải
nghiệm được “làm” những tri thức HS tiếp nhận vững chắc hơn và việc học tập của HS như vậy
là sự tự nguyện, hứng thú, hiệu quả học tập đạt được cũng như phẩm chất, năng lực của bản thân
được khẳng định.
Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên...
289
Đối với GD thường xuyên, Luật Giáo dục 2009 xác định GD thường xuyên là một bộ phận
của hệ thống giáo dục quốc dân, tồn tại song song cùng với giáo dục chính qui, nhằm cung cấp
cho con người cơ hội được học tập thường xuyên ở bất kì thời điểm nào để củng cố tri thức, tạo
điều kiện cho con người được học tập. Giáo dục thường xuyên cùng thực hiện một chương trình
trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018, trong đó HĐTN được coi là một hoạt động quan
trọng trong dạy học các môn học. Việc tăng cường các HĐTN trong DHLS không chỉ giúp cho
người học thêm hứng thú, được quan sát, làm việc trực tiếp với các sự kiện, hiện tượng lịch sử
bằng các hoạt động thực tiễn mang tính tập thể mà còn gắn kết kiến thức với đời sống xã hội và
với hoạt động nghề nghiệp trong tương lai của họ.
2.2. Thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các trung tâm
giáo dục thường xuyên
HĐTN trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018 có thời lượng 105 tiết cho mỗi cấp học:
“ở cấp Tiểu học gọi là HĐTN; Ở cấp Trung học (gồm THCS và THPT) được gọi là HĐTN,
hướng nghiệp) nhằm phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực cốt lõi của HS, được
triển khai theo 4 mạch nội dung hoạt động chính: hoạt động Hướng vào bản thân; Hướng đến
xã hội; Hướng đến tự nhiên và Hướng nghiệp. Nội dung của HĐTN và HĐTN, hướng nghiệp
chia theo 2 giai đoạn là giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp” [25, tr 31]. Căn
cứ vào Chương trình, các nhà giáo dục sẽ thiết kế nội dung/chủ đề HĐTN và HĐTN, hướng
nghiệp phù hợp với đối tượng HS ở từng cấp học. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho việc thực hiện
Chương trình GDPT Việt Nam 2018 (bắt đầu từ năm 2020), những năm qua dựa vào Chương
trình GDPT hiện hành, GV các TTGDTX đã tổ chức HĐTN trong môn học. Thực trạng việc tổ
chức HĐTN trong DHLS tại các TTGDTX hiện nay như thế nào?, có bất cập, khó khăn gì? Vấn
đề nào được rút ra để thực hiện tốt hoạt động này trong Chương trình GDPT Việt Nam 2018?.
Để tìm hiểu vấn đề, chúng tôi đã tiến hành điều tra khảo sát 97 GV của 63 tỉnh thành trong cả
nước đại diện cho 3 miền Bắc - Trung - Nam trong đợt tập huấn GV cốt cán TTGDTX về dạy
học chủ đề thông qua HĐTN do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì [26]. GV cốt cán tham dự lớp
tập huấn đều tốt nghiệp Đại học, có thâm niên công tác ít nhất là 5 năm trở lên. Nội dung và kết
quả khảo sát được thể hiện trong các bảng dưới đây:
* Quan niệm của GV về hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử ở các TTGDTX
Bảng 1. Quan niệm về hoạt động trải nghiệm trong dạy học lịch sử (Đơn vị:%)
Stt Quan niệm về hoạt động trải nghiệm
Mức độ nhận thức
(n = 97)
1 là hoạt động kết hợp giữa việc học tập và vui chơi, giải trí. 57
2
là hoạt động ngoại khóa tham quan, giao lưu với nhân chứng, tổ
chức các hội thi.
67
3
là hình thức dạy học thực hành, tạo điều kiện cho HS vận dụng
kiến thức, kinh nghiệm của bản thân vào giải quyết các vấn đề
trong thực tiễn bằng trí tuệ và cảm xúc cá nhân.
8
4
là hình thức dạy học thực hành được tổ chức trong giờ nội
khóa/ngoại khóa giúp HS vận dụng vốn kiến thức để giải quyết
các vấn đề thực tiễn phù hợp với nội dung môn học nhằm phát
triển các phẩm chất, năng lực của bản thân.
27
5 Ý kiến khác 4 (4,1%)
Quan niệm về HĐTN có sự phân hóa, nhiều GV chọn hai đáp án, nhầm lẫn gắn HĐTN với
1. kết hợp việc học tập với vui chơi, giải trí (58,7%), 2. hoạt động tham quan (69%), 3. hình
thức dạy học thực hành, tạo điều kiện cho HS vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của bản thân
vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn bằng trí tuệ và cảm xúc cá nhân (8,2%), 4. nhận thức
Nguyễn Thị Bích
290
đầy đủ về HĐTN (27%), 5. có ý kiến khác là tất cả các quan niệm trên (4,1%). Như vậy, quan
niệm của GV về HĐTN đang là vấn đề đáng lo ngại và cần phải bồi dưỡng để GV có nhận thức
đầy đủ về hoạt động này.
* Về mức độ tổ chức hoạt động trải nghiệm trong Chương trình giáo dục phổ thông
hiện hành
Bảng 2. Mức độ tổ chức hoạt động trải nghiệm lịch sử trong chương trình hiện hành
(Đơn vị: %)
Stt Hoạt động học tập lịch sử
Mức độ sử dụng
(n = 97)
1 2 3 4 5
1 Hỏi-đáp 0
2 Xem băng hình, phim tư liệu 0
3 Đọc sách giáo khoa, tài liệu 0
4 Bài tập về nhà 0
5 Trao đổi - thảo luận 21
6 Đóng vai lịch sử 76
7 Kể chuyện lịch sử 34
8 Trò chơi lịch sử 6
9 Đóng kịch lịch sử 37
10 Tham quan học tập tại các di tích, bảo tàng lịch sử 87
11 Gặp gỡ nhân chứng, nói chuyện lịch sử 5
12 Hoạt động sinh hoạt câu lạc bộ lịch sử 3
13 Tham gia các cuộc thi, hội thi 28
14 Dạ hội lịch sử 0
15 Các hoạt động công ích xã hội 18
(Các số từ 1 đến 5: 1 Chưa bao giờ, 2 Hiếm khi, 3 Thỉnh thoảng, 4 Thường xuyên,
5 Rất thường xuyên; chiều từ 1 đến 5 diễn tả mức độ hứng thú tăng dần)
Tham quan học tập tại các di tích, bảo tàng lịch sử là HĐTN được các TTGDTX thực hiện
nhiều nhất (89,6%); tiếp đó là đóng vai (78,3%); đóng kịch lịch sử (38,1%); Kể chuyện lịch sử
(35%); Tham gia các cuộc thi, hội thi (28,8%); Trao đổi, thảo luận (21,6%); Các hoạt động công
ích xã hội (18,5%); ngoài ra là các hoạt động học tập lịch sử khác có thể tổ chức HĐTN cho HS
nhưng số lượng giáo viên lựa chọn rất ítNhư vậy, GV ở các TTGDTX của nhiều tỉnh, thành
phố đều xây dựng kế hoạch ít nhất mỗi năm một lần tổ chức các HĐTN bên ngoài lớp học dưới
nhiều hình thức: tổ chức các cuộc thi, hội thi, tọa đàm với nhân chứng tại nhà văn hóa huyện,
tỉnh, tổ chức tham quan kết hợp làm hướng dẫn viên du lịch tại các di tích trong đó, tham
quan là HĐTN được tổ chức nhiều nhất song hoạt động tham quan này mang tính chất là một
hoạt động giáo dục chung của nhà trường hàng năm, nội dung chưa thực sự là HĐTN môn học
lịch sử.
* Nhận thức về hoạt động trải nghiệm trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện
hành và Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam 2018
Bảng 3. Điểm giống và khác nhau về nhận thức hoạt động trải nghiệm môn Lịch sử
Tổ chức hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở các trung tâm giáo dục thường xuyên...
291
trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành
và Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam 2018 (Đơn vị:%)
Stt Tiêu chí
Phương án chọn
(n = 97)
Giống Khác
1 Gắn học đi đôi với thực hành 97
2 Tạo hứng thú học tập lịch sử cho HS 97
3 Là hoạt động giáo dục bắt buộc 8
4 Là hoạt động giáo dục tự nguyện 43
5 Cần tổ chức thường xuyên 35
6 Thỉnh thoảng một kì hoặc 1 năm học tổ chức 1 lần 97
7 Chỉ tổ chức trên lớp 7
8 Chỉ tổ chức ngoài giờ lên lớp 97
9 Tổ chức cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp 74
GV nhận thức đúng (100%) về vai trò của HĐTN là gắn học đi đôi với hành, tạo hứng thú
học tập cho HS. Tuy nhiên, nhiều GV chưa nhận thức đúng bản chất của HĐTN: 43,2% cho rằng
trong Chương trình hiện hành HĐTN là hoạt động giáo dục tự nguyện, 35,1% cho rằng phải tổ
chức thường xuyên. Có 74,5% GV đã nhận thức đúng HĐTN cần tổ chức cả trên lớp và ngoài giờ
lên lớp. Một số ít GV nhầm lẫn HĐTN là hoạt động giáo dục bắt buộc và chỉ tổ chức ở trên lớp.
* Về hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm trong Chương trình giáo dục phổ thông
hiện hành
Bảng 4. Hình thức hoạt động trải nghiệm môn Lịch sử
trong Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành (Đơn vị:%)
Stt Hình thức hoạt động trải nghiệm Mức độ nhận thức (n = 97)
01 tổ chức cho học sinh tham quan 57
02 HS tham gia hoạt động trên lớp 8
03 tổ chức các hoạt động ngoại khóa 23
04 hướng dẫn tự học, tự lĩnh hội kiến thức 9
Nhận thức về hình thức tổ chức HĐTN của GV theo các tỉ lệ 1: 58%; 2: 8%; 3: 23%; 4: 9%.
Số liệu phản ánh đa GV đang nhận thức chưa đầy đủ về hình thức tổ chứ HĐTN. Cụ thể, đa số
GV chỉ xem tham quan, ngoại khóa là HĐTN. Chỉ một số ít GV cho rằng hoạt động học tập ở
trên lớp như HS tham gia vào các hoạt động học tập, hướng dẫn tự học, tự lĩnh hội kiến thức
cũng là một hình thức tổ chức HĐTN.
* Một số thuậ