Tổng quan tình hình kinh tế vĩ mô năm 2010 và định hướng cho năm 2011

Năm 2010 là năm cuối thực hiện kếhoạch 5 năm 2006-2010, Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 và cũng là năm có nhiều sựkiện quan trọng của đất nước (tập trung sức phấn đấu thực hiện các mục tiêu Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứX, tiến hành Đại hội Đảng bộcác cấp và chuẩn bịcho Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứXI vào đầu năm 2011). Kếhoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2010 được thực hiện trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tếtoàn cầu và thiên tai, dịch bệnh. Nhưng với sựnỗlực của cảhệthống chính trị, các ngành, các cấp, của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam đạt được phần lớn các chỉtiêu mà Quốc hội đềra. Quán triệt các Nghịquyết của Ban Chấp hành Trung ương, của BộChính trị, các Nghịquyết của Quốc hội vềkếhoạch phát triển kinh tế- xã hội, dựtoán ngân sách nhà nước và phân bổngân sách Trung ương năm 2010, Nghịquyết của Ủy ban Thường vụQuốc hội vềphân bổvốn trái phiếu Chính phủnăm 2010, Chính phủ đã ban hành các quyết định giao kếhoạch phát triển kinh tế- xã hội và dựtoán Ngân sách nhà nước, vốn đầu tưtừngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủnăm 2010 cho các bộ, ngành và các địa phương; ban hành các Nghịquyết vềcác giải pháp chỉ đạo, điều hành thực hiện kếhoạch (Nghịquyết số03/NQ-CP ngày 15/01/2010 và Nghịquyết số18/NQ-CP ngày 06/4/2010); tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành nhằm thực hiện tốt mục tiêu kếhoạch phát triển kinh tế- xã hội năm 2010 đã được đềra.

pdf16 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan tình hình kinh tế vĩ mô năm 2010 và định hướng cho năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KINH TẾ VĨ MÔ NĂM 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO NĂM 2011 I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2010 CỦA VIỆT NAM Năm 2010 là năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và cũng là năm có nhiều sự kiện quan trọng của đất nước (tập trung sức phấn đấu thực hiện các mục tiêu Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp và chuẩn bị cho Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI vào đầu năm 2011). Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 được thực hiện trong bối cảnh đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và thiên tai, dịch bệnh. Nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, của nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam đạt được phần lớn các chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra. Quán triệt các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương năm 2010, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phân bổ vốn trái phiếu Chính phủ năm 2010, Chính phủ đã ban hành các quyết định giao kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ năm 2010 cho các bộ, ngành và các địa phương; ban hành các Nghị quyết về các giải pháp chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch (Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15/01/2010 và Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06/4/2010); tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành nhằm thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 đã được đề ra. Trên cơ sở tình hình thực hiện các tháng đầu năm và dự báo khả năng thực hiện trong các tháng cuối năm, đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 trên các nội dung chủ yếu như sau: 1. Đã ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao Mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, nhưng kinh tế nước ta đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. GDP cả năm 2010 tăng khoảng 6,7%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Khu vực nông nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 7,6%, dịch vụ tăng 7,5%. Với htt p:/ /w ww .m pi. go .vn kết quả này, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt khoảng 7%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.160 USD. Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng khoảng 41% GDP. Kết quả giải ngân vốn Nhà nước khá cao và có tiến bộ trong điều hành, dự kiến cả năm sẽ đạt kế hoạch; nhờ đó sớm hoàn thành nhiều công trình kết cấu hạ tầng và tạo thêm cơ sở sản xuất mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng. Năm 2010, có khoảng 85 nghìn doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng; bình quân đạt gần 6 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng 125% so với năm 2009, góp phần quan trọng phát triển sản xuất kinh doanh và tạo thêm nhiều việc làm mới. 2. Kinh tế vĩ mô có bước cải thiện, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm Trong khi sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, cán cân thương mại thâm hụt lớn, bội chi ngân sách năm trước ở mức cao nhất trong những năm gần đây và những tác động phụ của gói kích thích kinh tế năm 2009, việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là một thách thức lớn, nhưng nhờ những biện pháp điều hành linh hoạt, phù hợp nên tình hình đã có bước cải thiện. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2010 dự kiến vượt 12,7% so với dự toán và tăng 17,6% so với năm 2009, bảo đảm được các nhiệm vụ chi và góp phần giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra (6,2%). Đến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn. Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, cơ bản bảo đảm được các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm: tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 20%, dư nợ tín dụng tăng khoảng 25%. Tỷ giá được điều hành linh hoạt hơn theo nguyên tắc thị trường; thực hiện điều hành lãi suất cho vay theo cơ chế thoả thuận và theo hướng giảm dần; tăng cường giám sát bảo đảm an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng; kiểm soát nợ xấu dưới 3%. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước tăng 19,1%, gấp hơn 3 lần so với kế hoạch góp phần quan trọng vào việc giảm nhập siêu giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. 2 htt p:/ /w ww .m pi. go v.v n Sản xuất kinh doanh phát triển, cân đối cung cầu được bảo đảm, cùng với các biện pháp tăng cường kiểm soát giá và chống đầu cơ, thị trường giá cả đã dần ổn định. 3. Bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn Trong điều kiện phải giảm bội chi ngân sách, nhưng các lĩnh vực văn hóa và xã hội vẫn được quan tâm chăm lo tốt hơn, góp phần thiết thực vào ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người một tháng đạt 1 triệu 365 nghìn đồng, tăng 8,9% (đã loại trừ yếu tố tăng giá). Cả năm tạo được khoảng 1,6 triệu việc làm mới; đã đào tạo nghề cho trên 1,7 triệu người. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tích cực triển khai, riêng đào tạo nghề cho nông dân là 430 nghìn người. Dự kiến đến cuối năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 40%. Công tác giảm nghèo, nhất là ở 63 huyện nghèo nhất, được triển khai đồng bộ với các giải pháp trợ giúp thiết thực cả về sản xuất và đời sống. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,85%, xuống còn 9,5%. Chương trình xây dựng nông thôn mới đang được triển khai tích cực. Chính sách trợ giúp người có công và bảo trợ xã hội tiếp tục được hoàn thiện, đã mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức trợ cấp. Nhà nước dành hơn 19.000 tỷ đồng (tăng 17% so với năm 2009) để thực hiện chính sách cho hơn 1,4 triệu người có công với cách mạng; dành 4.500 tỷ đồng (gấp hơn 2 lần năm 2009) để thực hiện trợ cấp thường xuyên cho hơn 1,6 triệu người và dành hàng nghìn tỷ đồng, hàng chục nghìn tấn gạo để trợ cấp đột xuất, chủ yếu cho khắc phục thiên tai và cứu đói giáp hạt. Các chính sách phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp khu vực đô thị, nhà ở cho người nghèo ở nông thôn, ký túc xá cho học sinh, sinh viên được khẩn trương triển khai và đạt kết quả tích cực. Dư nợ cho vay ưu đãi để thực hiện các chính sách xã hội là 91.000 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2009, riêng dư nợ tín dụng cho 1,9 triệu học sinh, sinh viên là 29.000 tỷ, tăng 60%. Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách tiền lương, đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung thực hiện từ ngày 01 tháng 5 năm 2010 và một số chính sách liên quan. Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục phát triển. Số người tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đều tăng, góp phần tích cực vào giảm thiểu thiệt hại và khó khăn cho người tham gia khi gặp rủi ro. 3 htt p:/ /w ww .m pi. go v.v n Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới đã được quan tâm hơn, nhiều mặt đạt được kết quả tích cực, đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Quốc hội giao. Một số bệnh dịch mới, nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi. Hệ thống cơ sở y tế tiếp tục được củng cố và phát triển. Việc thực hiện các đề án xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống các bệnh viện, luân chuyển cán bộ y tế và đẩy mạnh xã hội hóa đã góp phần nâng cao năng lực và chất lượng khám chữa bệnh, nhất là ở tuyến tỉnh và tuyến huyện. Có khoảng 80% số xã đạt chuẩn y tế (năm 2009 là 65,36%). Nhiều kỹ thuật khám, chữa bệnh bằng công nghệ cao được nghiên cứu, ứng dụng thành công ở nhiều bệnh viện. Đã hình thành mạng lưới kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm quốc gia. Giáo dục và đào tạo có bước phát triển. Tích cực triển khai thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, cơ chế tài chính, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và đổi mới phương pháp giảng dạy. Cùng với việc tăng đầu tư của Nhà nước, đã đẩy mạnh xã hội hoá để nâng cấp cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục - đào tạo từ mầm non đến đại học. Đã kết nối internet cho tất cả các trường phổ thông. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia bậc mầm non và các cấp học phổ thông tăng nhanh, 100% tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tỷ lệ học sinh bỏ học ở hầu hết các vùng đều giảm, kỷ cương trong thi cử đã được thực hiện tốt hơn. Kiểm soát chặt chẽ hơn việc thành lập mới các trường đại học. Đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội và tích cực triển khai hợp tác đào tạo theo chương trình tiên tiến với các trường đại học nước ngoài. Văn hóa, thông tin, thể dục thể thao có bước phát triển. Thông tin báo chí đã góp phần quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kịp thời phản ánh ý kiến nhân dân về các vấn đề của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật có bước phát triển mới, làm tăng tính đa dạng của sản phẩm văn hoá, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được quan tâm thực hiện. Năm 2010 nước ta đã có thêm hai di sản văn hoá được công nhận là di sản thế giới. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú. Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội được tổ chức trọng thể, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần giáo dục lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp, nâng cao niềm tự hào của nhân dân cả nước về Thủ đô Anh hùng nghìn năm văn hiến. 4 htt p:/ /w ww .m pi. go v.v n 4. Khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường đạt được những kết quả tích cực Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập bước đầu đã phát huy hiệu quả. Các doanh nghiệp khoa học công nghệ và cơ sở nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ được khuyến khích phát triển. Năm 2010 có trên 300 doanh nghiệp khoa học công nghệ được thành lập mới, gấp 2 lần năm 2009. Thị trường công nghệ có bước phát triển, giá trị các giao dịch, mua bán công nghệ tăng so với năm trước. Số lượng sáng chế của người Việt Nam được đăng ký bảo hộ tăng gấp 2 lần, trong đó số bằng bảo hộ được cấp tăng 15%; các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được hơn 30 giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao. Công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường đã được chú ý chấn chỉnh một bước. Hệ thống pháp luật về tài nguyên khoáng sản tiếp tục được hoàn thiện. Công tác thanh tra, kiểm tra việc cấp phép và chấp hành pháp luật về khai thác khoáng sản được tăng cường. Đã xây dựng và triển khai chiến lược khai thác, sử dụng khoáng sản nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Công tác quản lý tài nguyên đất, tài nguyên nước được quan tâm hơn. Đến nay, đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đang khẩn trương tổng kết việc thi hành luật đất đai để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện. Công tác bảo vệ môi trường được coi trọng và tập trung chỉ đạo đồng bộ cả về xây dựng thể chế, chính sách; thực hiện các giải pháp phòng ngừa ô nhiễm; tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm. Đã xử lý hàng trăm cơ sở vi phạm pháp luật về môi trường, trong đó, có nhiều vụ vi phạm nghiêm trọng. Công tác đánh giá tác động môi trường và giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm ở các dự án đầu tư mới được kiểm soát chặt chẽ hơn. Xử lý chất thải rắn đô thị, chất thải rắn y tế được đẩy mạnh. Việc bảo đảm nước sinh hoạt cho nhân dân được quan tâm, đến nay đã có 83% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, 76% dân số đô thị được sử dụng nước sạch. Trồng và bảo vệ rừng có tiến bộ, đến cuối năm 2010, độ che phủ rừng đạt 39,5%. Chương trình mục tiêu và kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu đang được tích cực triển khai. 5. Cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm được quan tâm chỉ đạo và đạt những kết quả thiết thực Cải cách hành chính tiếp tục được coi là một khâu đột phá với các nội dung là hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy và cải cách thủ tục hành chính. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 16 dự án luật, pháp 5 htt p:/ /w ww .m pi. go .vn lệnh theo đúng tiến độ, đồng thời đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Đề án 30 về đơn giản hoá thủ tục hành chính được triển khai đồng bộ; đã công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính, đồng thời chuẩn hóa và thống nhất thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền; đang thực hiện đơn giản hoá 258 thủ tục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành, tập trung vào các lĩnh vực như đất đai, nhà ở, xây dựng, thuế, hải quan. Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo nguyên tắc tăng tính công khai, minh bạch và giảm phiền hà nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, việc ứng dụng công nghệ thông tin... đã phát huy hiệu quả thiết thực. Công tác kiểm tra, xử lý và theo dõi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh. Mô hình tổ chức của Bộ đa ngành, đa lĩnh vực tiếp tục được hoàn thiện. Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở huyện, quận, phường được triển khai nghiêm túc, chặt chẽ. Công tác phòng, chống tham nhũng có những tiến bộ cả trong xây dựng thể chế, kiện toàn bộ máy chỉ đạo, thực hiện các giải pháp phòng ngừa và kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng. Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và thực hiện các cuộc đối thoại đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về hoạt động phòng, chống tham nhũng. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tập trung vào các lĩnh vực như chi ngân sách, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản công, đất đai, tài nguyên. Việc thực hiện cơ chế khoán chi hành chính, cơ chế tự chủ về tài chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục, họp trực tuyến... đã tiết kiệm đáng kể cho ngân sách và các nguồn lực của xã hội. 6. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực, vị thế của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế. Đã từng bước nâng cao chất lượng, tăng cường tiềm lực cho quân đội, công an, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia. Các lực lượng chức năng đã chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện và đấu tranh làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Các sự kiện lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao của đất nước được bảo vệ an toàn. Công tác phòng ngừa và 6 htt p:/ /w ww .m pi. go v.v n đấu tranh, trấn áp tội phạm được triển khai thực hiện có hiệu quả. Công tác đặc xá cho các phạm nhân được thực hiện tốt, nhất là trong khâu chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm chỉ đạo. Việc phối hợp giữa các cấp, các ngành chức năng và tăng cường đối thoại giữa cơ quan hành chính với người khiếu nại, tố cáo đã góp phần xử lý dứt điểm nhiều vụ việc, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài. Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, cả ngoại giao chính trị, kinh tế và văn hoá; kết hợp đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi, tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Những kết quả nổi bật của các Hội nghị Cấp cao ASEAN 16, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị các Bộ trưởng ASEAN về các trụ cột kinh tế, văn hoá và xã hội... mà Việt Nam trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA và là nước chủ nhà Diễn đàn kinh tế Đông Á, được dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao. Công tác hội nhập quốc tế được triển khai tích cực và chủ động với những kết quả thiết thực. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được quan tâm. Những kết quả này đã góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện thuận lợi và nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, năm qua, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục: 1. Kinh tế tăng trưởng nhưng thiếu tính bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; cơ sở hạ tầng còn yếu kém; hiệu quả đầu tư thấp; đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng với vai trò chiến lược của khu vực này. Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp. Phát triển nguồn điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Khu vực doanh nghiệp nhà nước giữ một phần lớn vốn, tài sản, đất đai, tài nguyên quốc gia nhưng hiệu quả đầu tư và tăng trưởng chưa tương xứng; cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm; quản lý nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập. 2. Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ; bao cấp qua giá điện, giá than còn kéo dài, không khuyến khích tiết kiệm năng lượng và hạn chế việc huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế vào phát triển nguồn điện. Quản lý giá 7 htt p:/ /w ww .m pi. go v.v n một số mặt hàng nhất là giá sữa, giá thuốc chữa bệnh chưa tốt. Các cân đối vĩ mô chưa vững chắc; điều tiết qua thuế còn cao, thất thu còn nhiều, chi ngân sách còn lãng phí, bội chi còn lớn, nhập siêu còn cao, cán cân thanh toán tổng thể vẫn còn thâm hụt, dự trữ ngoại tệ giảm, lãi suất cho vay còn cao. Sự phối hợp giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ còn chưa đồng bộ. Việc xử lý mối quan hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng chưa thật hợp lý, tốc độ tăng trưởng tuy đạt khá cao nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn mới cho ổn định kinh tế vĩ mô. 3. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao. Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động. Chế độ tiền lương chưa hợp lý, nhất là khu vực hành chính công. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân vẫn còn không ít khó khăn, yếu kém; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt. Việc xây dựng đời sống, lối sống văn hoá chưa tạo được nhiều chuyển biến trong việc bồi dưỡng, phát huy các nhân tố tích cực, đẩy lùi tiêu cực. Các hoạt động lễ hội chưa được quản lý tốt; nhiều hoạt động còn tự phát, thiếu chọn lọc, phô trương hình thức, lãng phí. Tệ nạn xã hội ở một số nơi còn diễn biến phức tạp; kết quả kiềm chế lây nhiễm HIV chưa vững chắc, vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát cao. Tai nạn và ùn tắc giao thông vẫn còn là vấn đề bức xúc. 4. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo vẫn còn bất cập. Chất lượng giáo dục đào tạo không đồng đều, chậm được cải thiện; nội dung và chương trình đào tạo nghề nghiệp, phương pháp dạy và học chậm được đổi mới. Phát triển giáo dục đào tạo ở các vùng khó khăn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ thu hút học sinh ở bậc trung học phổ thông, tỷ lệ học sinh vào đại học cao đẳng đạt thấp, tỷ lệ học sinh yếu kém còn cao. Tình trạng vi phạm đạo đức trong nhà trường còn diễn ra ở nhiều nơi, gây bức xúc trong xã hội. 5. Công tác nghiên cứu ứng dụng kho
Tài liệu liên quan