Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm các
doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương
mại, ngân hàngđầu tư, công ty chứng khoán Dựa vào các mục đích tham gia thị
trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:
Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chínhvà phi tài chính hay
những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch các loại
tài sản cơ sở như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, lãi suất và có những lo ngại về sự
biến động của giá cả hàng hóa, tỉ giá, lãi suất làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động kinh doanh, lợi ích của họ. Thông thường,họ tham gia thị trường với tư cách
là những người mua các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro về sự biền động của
giá cả, tỉ giá, lãi suất Họ sẵn sàng bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn
để đổi lấy một mức tỉ giá, giá cả, lãi suất cố định.
10 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2140 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về quyền chọn (Bài 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổng quan về quyền chọn (Bài 2)
Bài này thuộc sự kiện/chuyên đề: Thực trạng thị trường quyền chọn ngoại tệ và
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
Sau khi xem xét khái niệm và các đặc tính để phân loại quyền chọn. Ta hãy tìm
hiểu các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn cũng như tầm quan trọng của
quyền chọn và thị trường quyền chọn.
3. Các chủ thể tham gia thị trường quyền chọn
Các chủ thể tham gia thị trường giao dịch quyền chọn rất đa dạng, bao gồm các
doanh nghiệp, các cá nhân, các tổ chức hoạt động tài chính như ngân hàng thương
mại, ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán…Dựa vào các mục đích tham gia thị
trường của mỗi đối tượng, ta có thể phân ra thành các nhóm sau:
Những người phòng ngừa rủi ro: Là những tổ chức tài chính và phi tài chính hay
những cá nhân, tham gia thị trường quyền chọn do có nhu cầu giao dịch các loại
tài sản cơ sở như ngoại tệ, chứng khoán, vàng, lãi suất…và có những lo ngại về sự
biến động của giá cả hàng hóa, tỉ giá, lãi suất…làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động kinh doanh, lợi ích của họ. Thông thường, họ tham gia thị trường với tư cách
là những người mua các quyền chọn để bảo hiểm các rủi ro về sự biền động của
giá cả, tỉ giá, lãi suất…Họ sẵn sàng bỏ ra một khoản phí cho hợp đồng quyền chọn
để đổi lấy một mức tỉ giá, giá cả, lãi suất cố định.
Các nhà đầu tư, đầu cơ: Là các cá nhân, các tổ chức tài chính và phi tài chính,
tham gia vào thị trường với mục đích đầu cơ vào sự chênh lệch tỉ giá, giá cả, lãi
suất … họ thường dựa vào các công cụ phân tích kỹ thuật để đưa ra các dự đoán
về xu hướng tỉ giá, giá cả, lãi suất …Từ đó, thực hiện mua bán các quyền chọn
thích hợp để thu lợi nhuận.
Các tổ chức tài chính trung gian: Bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng
đầu tư, công ty chứng khoán…Ngoài mục đích tham gia vào thị trường cũng với
tư cách là các nhà đầu tư hoặc những người có nhu cầu về bảo hiểm rủi ro. Ở các
nước phát triển, nơi mà các giao dịch quyền chọn hầu như chỉ diễn ra trên các sàn
giao dịch tập trung, với tư cách là các thành viên của sở giao dịch quyền chọn, họ
đóng vai trò như một nhà môi giới các giao dịch quyền chọn trên thị trường, chỉ
một số ít các tổ chức tài chính lớn như các tập đoàn tài chính khổng lồ mới có khả
năng tự đứng ra phát hành quyền chọn cho thị trường.
Đối với Việt Nam chúng ta, nơi mà một sàn giao dịch quyền chọn tập trung vẫn
chưa hình thành, các tổ chức tài chính (ngân hàng thương mại, công ty chứng
khoán…) thường tự đứng ra phát hành quyền chọn khi có nhu cầu từ khách hàng,
hoặc đóng vai trò như một trung gian tài chính cung cấp các hợp đồng quyền chọn
cho khách hàng từ các nhà phát hành quyền chọn chính thức ở trong nước và nước
ngoài để thu một khoản phí dịch vụ.
4. Tầm quan trọng của quyền chọn và thị trường quyền chọn
Thị trường quyền chọn rất đa dạng, phong phú do các tài sản cơ sở của chúng rất
đa dạng. Do phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu về quyền chọn ngoại tệ và quyền cổ
phiếu nên chúng tôi chỉ tập trung phân tích tầm quan trọng của hai loại quyền chọn
này, đặc biệt là trên thị trường ngoại hối và thị trường chứng khoán.
a. Đối với doanh nghiệp:
Quyền chọn như công cụ để quản trị rủi ro do nó có thể có mức tỉ giá, giá cả, lãi
suất ở một mức cố định phù hợp với mỗi nhà đầu tư, là công cụ để phân phối lại
rủi ro giữa các nhà đầu tư. Các cá nhân hay tổ chức với mức ngại rủi ro cao, có thể
sử dụng options để chuyển phần lớn rủi ro này tới các nhà đầu cơ.
Mỗi một biến động hay thay đổi của giá cả, tỉ giá, lãi suất đều sẽ gây ra các biến
động cho chi phí đầu vào cũng như lợi nhuận đầu ra của doanh nghiệp, gây ra
nhiều khó khăn cho việc hoạch định các dòng tiền ra vào doanh nghiệp, do sự
không chắc chắn về giá cả, tỉ giá, lãi suất trong tương lai, tạo ra nhiều rủi ro cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh nếu chúng biến động theo chiều hướng bất lợi
cho doanh nghiệp.
Hiện nay ở Việt Nam, việc quản trị rủi ro dù đã được nhiều doanh nghiệp quan
tâm đến, nhưng hầu như các doanh nghiệp vẫn chưa quy định nghĩa vụ, trách
nhiệm cụ thể cho những người đứng đầu doanh nghiệp khi những thiệt hại, hậu
quả xảy đến cho doanh nghiệp hoặc chỉ xử lý chung chung, khiến nhiều vị đứng
đầu doanh nghiệp sao nhãng vấn đề quản trị rủi ro cho tổ chức của mình, điều này
sẽ càng trở nên nguy hại khi nước ta đã gia nhập WTO, cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng gay gắt. Doanh nghiệp thiếu hoặc có hệ thống quản lý rủi ro
lỏng lẻo sẽ như là một anh lính ra ngoài trận mạc mà không có một tấm áo giáp
bảo vệ hay mang trên mình tấm áo giáp rách rưới, mỏng manh, rất dễ dẫn đến tử
trận trước những anh lính hùng mạnh với tấm áo giáp dày khác. Ở các nước, quản
trị rủi ro là một trong những nhiệm vụ hàng đầu cho sự sinh tồn, phát triển của
doanh nghiệp, và trách nhiệm, uy tín của người lãnh đạo doanh nghiệp thường gắn
với khả năng quản trị rủi ro của anh ta.
Nhưng đặt vấn đề ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam muốn quản trị, kiểm soát
rủi ro thì họ phải thực hiện như thế nào, đâu là các công cụ, phương tiện để họ
thực hiện điều đó khi nền kinh tế, tài chính Việt Nam còn non kém, nhận thức của
các doanh nghiệp nhìn chung còn nhiều hạn chế.
Do đó, việc thành lập và phát triển của thị trường options sẽ giúp các nhà đầu tư,
các doanh nghiệp có thêm một phương thức, công cụ hữu hiệu để thực hiện chiến
lược quản trị rủi ro của mình, giúp cố định được các chi phí đầu vào cũng như lợi
nhuận đầu ra, đảm bảo sự ổn định, dễ dàng cho việc dự báo, tính toán các dòng
tiền ra vào của doanh nghiệp, từ đó giúp cho việc lên kế hoạch, hoạch định các dự
án kinh doanh dễ dàng hơn, hạn chế đến mức tối đa các thiệt hại cho doanh
nghiệp.
b. Đối với nhà đầu tư (các cá nhân và tổ chức)
Sử dụng quyền chọn như công cụ bảo hiểm:
Hợp đồng quyền chọn có thể được sử dụng như một công cụ bảo hiểm hiệu quả
đối với các rủi ro do sự biến động của tỉ giá, giá cả cổ phiếu.
Trên thị trường ngoại hối:
Đối với các nhà xuất nhập khẩu, một trong những điều làm họ lo lắng nhất là sự
biến động của tỉ giá. Nếu tỉ giá biến động theo hướng có lợi cho họ thì không nói
gì, nhưng thử đặt điều kiện ngược lại, nếu tỉ giá biến động theo hướng bất lợi cho
họ thì sao? Đôi khi những thiệt hại về tỉ giá khó mà ước lượng một cách chính xác
được, và nó cũng sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc ước
lượng dòng tiền, lợi nhuận để có biện pháp ứng phó thích hợp hoặc để dễ dàng cho
việc ra các quyết định kinh doanh.
Trong thời gian vừa qua, hầu hết các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam gặp
phải khó khăn rất lớn do sự biến động tỷ giá đồng USD/VNĐ, việc tăng giảm đột
ngột của USD đã gây không ít khó khăn cho các nhà xuất nhập khẩu, giá USD có
lúc lên trên 18.000VNĐ/USD, thậm chí là 19.000VNĐ/USD, lúc lại sụt giảm
mạnh xuống dưới 16.500VNĐ/USD. Một số doanh nghiệp xuất khẩu rất hạn chế
trong việc xuất khẩu do sợ đồng USD tiếp tục mất giá gây nguy cơ thua lỗ, phá
sản. Ngược lại, các doanh nghiệp nhập khẩu lại lo ngại tỉ giá USD/VNĐ gia tăng,
làm đội chi phí nhập khẩu của họ.
Với các tác động nhiều phía từ tình hình thế giới cũng như trong nước, rất khó để
ước lượng được tỉ giá sẽ diễn biến như thế nào, và các biến động về tỉ giá sẽ gây ra
rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, có thể làm đảo lộn mọi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy doanh nhiệp phải làm thế nào để ứng phó
với những nguy cơ, rủi ro này?
Trên thị trường chứng khoán
Tương tự như thế, kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố ra đời
vào ngày 20-7-2000 (hiện nay là HOSE), hoạt động của thị trường chứng khoán
trở nên sôi động và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, đặc biệt là quá trình cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành thuận lợi hơn như
Vietcombank, Bảo Việt, Sabeco…. Tuy nhiên, cho đến nay, sau 8 năm thành lập,
thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những dấu hiệu hết sức lo ngại, chỉ số
VN-Index sau một thời gian tăng nhanh, tăng nóng đến mức đỉnh trên 1100 điểm,
thị trường đã liên tục giảm khá sâu ngoài dự tính của tất cả mọi người, kể cả các
chuyên gia trong ngành, dù đã phục hồi phần nào trong thời gian gần đây, nhưng
chỉ còn xấp xỉ quanh ngưỡng 300 điểm (giảm gần 80% giá trị). Do bị tác động của
những khó khăn trong nước giai đoạn quí nửa đầu năm 2008 và ảnh hưởng từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Những cổ phiếu chủ chốt của thị trường như FPT, REE, SSI, STB … có thời điểm
giá lần lượt lên tới 600.000, 280.000, 200.000, 80.000 đồng/CP thì nay chỉ còn có
giá khoảng 50.000, 22.000, 30.000, 19.000 đồng/CP. Trong thời kì ảm đạm đó,
các nhà đầu tư thua lỗ nặng, kể cả các quĩ đầu tư nước ngoài có vốn lớn, có kinh
nghiệm đầu tư lâu năm, cầu chứng khoán suy giảm mạnh, thị trường trở nên èo
uột, buồn tẻ… Vậy giải pháp cho vấn đề này như thế nào? Có biện pháp gì để bảo
vệ nhà đầu tư khi giá chứng khoán liên tục giảm hoặc giảm đột biến như thời gian
vừa qua.
Thực tế, đã có nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ nặng trong thời gian qua, nhất là các nhà
đầu tư cá nhân nhỏ ít vốn, phải cầm cố tài sản, phải đi vay và thiếu kinh nghiệm
cũng như kiến thức đầu tư. Biểu đồ giao dịch trên thị trường cho thấy, khi giá cổ
phiếu ở đỉnh cao nhất, đó là lúc có nhiều người mua vào nhất. Khi thị trường đi
xuống mạnh, họ đứng trước nguy cơ thua lỗ lớn, và phải bán tháo hàng loạt, làm
thị trường xuống dốc lại càng xuống dốc hơn nữa.
Câu hỏi đặt ra là liệu có biện pháp nào để phòng ngừa rủi ro hay bảo vệ lợi nhuận,
bảo toàn vốn cho các nhà đầu tư khi thị trường suy giảm mạnh?
Như vậy, trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn như hiện nay,
thị trường chứng khoán có thể suy giảm, tỉ giá biến động khó lường, thị trường
nhà đất đang chững lại do sự xiết chặt quản lý của nhà nước. Song song đó, nền
kinh tế đang bị sức ép bởi lạm phát tăng cao nhất trong những năm qua, chỉ số giá
cả tiêu dùng tăng mạnh, giá dầu thô tăng cao, đồng thời bị tác động bởi sự suy
giảm của nền kinh tế Mỹ… đã gây không ít khó khăn cho hoạt động của các ngân
hàng, TCTD, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư. Do đó, việc
nghiên cứu áp dụng chứng khoán phái sinh vào giao dịch trên thị trường chứng
khoán, ngoại hối, tiền tệ, hàng hóa …. đặc biệt là nghiên cứu phát triển thị trường
quyền chọn ngoại tệ và áp dụng quyền chọn cổ phiếu vào giao dịch trên thị trường
chứng khoán ở Việt Nam sẽ làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính cho thị
trường. Mặt khác, nó còn tạo ra công cụ để bảo vệ nhà đầu tư, các nhà xuất nhập
khẩu, các doanh nghiệp…trước những rủi ro của sự biến động về giá cả, lãi suất, tỉ
giá thị trường.
Sử dụng quyền chọn như một công cụ đầu tư
Thị trường của các hàng hóa cơ sở thì biến động từng ngày, từng giờ. Với chức
năng cố định giá của mình, hợp đồng quyền chọn có thể được các nhà đầu cơ sử
dụng cho trong việc kinh doanh chênh lệch giá của mình.
Với khả năng chịu rủi ro cao, và khả năng phân tích, dự báo tốt, các nhà đầu cơ có
thể sử dụng công cụ options để mua một hàng hóa cơ sở (ngoại tệ, cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ…) ở mức giá các cố định nào đó (thấp hơn giá cùa hàng hóa
đó ở thị trường giao ngay), rồi đem chúng ra bán lại ở thị trường giao ngay với
mức giá cao hơn theo dự đoán của mình. Hoặc ngược lại, mua hàng hóa ở thị
trường giao ngay ở mức giá thấp hơn theo dự đoán, rồi đem chúng bán lại ở một
mức giá cố định cao hơn so với thị trường giao ngay trong hợp đồng quyền chọn,
giúp thu lợi nhuận từ sự chênh lệch tỉ giá, giá cổ phiếu. Việc kinh doanh chênh
lệch giá này chứa đựng nhiều rủi ro, nhưng đây chính là lực lượng đông đảo tham
gia các giao dịch options ở các nước, giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường
options cũng như các thị trường tài sản cơ sở như thị trường ngoại hối và thị
trường chứng khoán.
Việt Nam dù còn là một nước đang phát triển với thu nhập thấp, nhưng số vốn
nhàn rỗi trong dân chúng nhìn chung vẫn còn khá cao, đặc biệt là các thành phố
lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…Dưới áp lực của lạm phát, sự hao hụt
của số vốn này sẽ rất nhanh, gây mất mát cho người giữ chúng, việc tìm một kênh
đầu tư để duy trì và phát triển khối tài sản này là điều tất yếu. Hiện ở Việt Nam,
các kênh đầu tư như chứng khoán, vàng, ngoại tệ, gửi ngân hàng…là các kênh đầu
tư chính, nhưng do mới hình thành, phát triển và một số hạn chế, khi các thị
trường này đi xuống như thời gian gần đây, thì sự mất mát tài sản của các nhà đầu
tư càng diễn ra nhanh hơn.
Thị trường options với đặc trưng là một thị trường phát sinh dựa trên các thị
trường cơ sở như thị trường ngoại hối, chứng khoán… sẽ là một kênh đầu tư, tìm
kiếm lợi nhuận mới, ngay cả khi các thị trường cơ sở này sụt giảm. Nó sẽ là một
sân chơi mới cho các nhà đầu tư với các đặc tính phức tạp cao hơn, rủi ro nhiều
hơn nhưng trình độ sẽ cao hơn và lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn, giúp tăng khả
năng, trình độ các nhà đầu tư, các chủ thể tham gia thị trường so với chính bản
thân họ và với nhà đầu tư các nước có thị trường tài chính phát triển hơn.
c. Đối với nền kinh tế
Dưới góc độ vĩ mô, sự hình thành và phát triển các giao dịch quyền chọn có vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt trong điều kiện hội nhập
nền kinh tế quốc tế như hiện nay:
Sự hình thành và phát triển giao dịch quyền chọn góp phần hoàn thiện hơn thị
trường phái sinh nói chung, từ đó hỗ trợ cho sự phát triển hiệu quả, ổn định của thị
trường các tài sản cơ sở (đặc biệt là thị trường ngoại hối và thị trường chứng
khoán) cũng như thị trường tài chính, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển bền vững do đã phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các hậu quả do các
biến động thị trường gây ra.
Giao dịch quyền chọn phát triển đồng nghĩa với việc nền kinh tế có một công cụ
hữu hiệu để bảo hiểm tỉ giá, giá cả, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Quá trình này gắn liền với sự tin tưởng, với niềm tin
của các nhà đầu tư về mức độ phòng ngừa rủi ro để nhà đầu tư bảo toàn đồng vốn,
lợi nhuận của mình, cũng như chủ động trong các kế hoạch đầu tư kinh doanh tại
nước sở tại.
Tương tự như thế, thị trường options với chức năng của một công cụ phòng ngừa
rủi ro và đầu tư sẽ có tác dụng thu hút thêm một lượng vốn nhàn rỗi trong dân
chúng Việt Nam, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn, cả trực tiếp và gián
tiếp vào nền kinh tế. Nó sẽ thúc đẩy, khuyến khích tâm lý đầu tư trong dân chúng,
giúp cho nguồn vốn được khơi thông, chảy vào những khu vực có ích.
Tóm lại, việc hình thành và phát triển của thị trường quyền chọn sẽ làm cho giá cả
phản ánh đúng cung cầu thị trường hơn, đồng thời các doanh nghiệp, các ngân
hàng cũng như các nhà đầu tư có thêm các công cụ để phòng ngừa rủi ro và đầu tư
tìm kiếm lợi nhuận. Nhà nước sẽ dễ dàng hơn trong việc quản lý cũng như tạo
thêm một kênh huy động vốn cho nền kinh tế. Do đó, các giao dịch trên các thị
trường tài sản cơ sở sẽ được thực hiện nhiều hơn với giá trị cao hơn. Từ đó giảm
tính đơn điệu của các thị trường tài sản cơ sở cũng như thị trường tài chính Việt
Nam, giúp cho chúng hoạt động ngày một chuyên nghiệp hơn, thúc đẩy kinh tế
phát triển nhanh hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Jeff Madura (năm 2006), “International Financial Management”, biên tập
lần thứ 8, NXB Thomson South-Western.
2. John C.Hull (2003), Fundamental of Futures and Options, NXB Prenctice
Hall.
3. David A.Dubofsky &Thomas W.Miller,Jr (2003), Derivaties-valuation and
risk management”, NXB Oxford University Press.
4. TS Nguyễn Ninh Kiều (1998), “Thị trường ngoại hối”, NXB Tài chính.
5. Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (2007), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giải
pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam”, NXB Văn hóa-Thông tin.
6. Trần Thị Phương Dung, Đại học Ngoại Thương (2008), Luận văn tốt
nghiệp “Giải pháp phát triển giao dịch quyền chọn ngoại tệ tại Việt Nam
(2008-2020), nghiên cứu điển hình tại ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu
Việt Nam (Eximbank)”.
7. TS. Nguyễn Ninh Kiều (2006), công trình nghiên cứu khoa học “Hoàn
thiện các giải pháp phòng nghừa rủi ro tỷ giá nhằm chuẩn bị hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới”.
8. TS.Đào Lê Minh (chủ biên) (2008), “Những vấn đề cơ bản về chứng khoán
và thị trường chứng khoán”, NXB Chính Trị Quốc Gia.
9. ThS.Phạm Thị Hoàng Anh, “Rủi ro của các nghiệp vụ tài chính phái sinh
trog hoạt động kinh doanh của NHTM”, Tạp chí ngân hàng, số 22/2007,
trang 50-53, 64.
10. Việt Bảo, “Phát triển nghiệp vụ tài chính phái sinh ở Việt Nam”, Tạp chí
ngân hàng, số 22/2007, trang 37-39.
11. Lê Thị Đào Anh, “Sử dụng hợp đồn quyền chọn”, Tạp chí Công nghệ ngân
hàng, số 5/2005, trang 23-25.
12. TS.Trần Quốc Tuấn (2008), “Cần hoàn thiện khung pháp lý về chứng
khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay”.
13. NHNN, công văn số 135/NHNN-QLNH ngày 29-32006 về việc thí điểm
nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ/VNĐ tại Eximbank.
14. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Công văn số 1650/UBCK-PTTT về việc
điều chỉnh biên độ giá cổ phiếu, chứng chỉ quỹ.
15. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (2-8-2007), quyết định số
128/2007/QĐ-TTg về việc "Phê duyệt Đề án phát triển thị trường Vốn Việt
Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020" theo đề nghị của Bộ Tài
chính tại Tờ trình số 22/TTr-BTC ngày 28/3/2007.
16. Sử dụng Hợp Đồng Quyền Chọn với kinh doanh ngoại tệ