Có nhiều cách để định nghĩa về VTHKCC:
+ VTHKCC là hệ thống vận tải với các tuyến đường và lịch trình cố định, có sẵn, phục vụ nhu cầu của mọi đối tượng chịu chi trả với mức giá quy định.
+ VTHKCC được hiểu theo một cách khác là hoạt động trong đó sự vận chuyển được cung cấp cho hành khách để thu tiền cước bằng những phương tiện vận tải không phải của họ.
+ VTHKCC là loại dịch vụ vận tải mà chủ thể mục đích tham gia giao thông không phải là người cung ứng dịch vụ vận tải
23 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 6049 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về VTHKCC bằng xe buýt và hệ thống thông tin khách hàng trong VTHKCC bằng xe buýt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VTHKCC BẰNG XE BUÝT VÀ HỆ THỐNG THÔNG TIN HÀNH KHÁCH TRONG VTHKCC BẰNG XE BUÝT
Tổng quan về VTHKCC bằng xe buýt
1.1.1. Khái niệm về VTHKCC
Khái niệm
Có nhiều cách để định nghĩa về VTHKCC:
+ VTHKCC là hệ thống vận tải với các tuyến đường và lịch trình cố định, có sẵn, phục vụ nhu cầu của mọi đối tượng chịu chi trả với mức giá quy định.
+ VTHKCC được hiểu theo một cách khác là hoạt động trong đó sự vận chuyển được cung cấp cho hành khách để thu tiền cước bằng những phương tiện vận tải không phải của họ.
+ VTHKCC là loại dịch vụ vận tải mà chủ thể mục đích tham gia giao thông không phải là người cung ứng dịch vụ vận tải
+ VTHKCC là loại hình vận tải trong đô thị có thể đáp ứng khối lượng lớn nhu cầu đi lại của mọi tầng lớp dân cư một cách thường xuyên, liên tục theo thời gian xác định theo những hướng và tuyến ổn định trong những thời kỳ xác định.
+ Ở Việt Nam theo quy định của Cục đường bộ thì VTHKCC là tập hợp các phương thức vận tải hành khách đi lại trong thành phố ở cự ly dưới 50 Km và có sức chứa từ 8 hành khách trở lên (không kể người lái ).
+ Theo bài giảng Quy hoạch GTVTĐT của Tiến sĩ Khuất Việt Hùng: “ VTHKCC đô thị được hiểu là các phương thức phục vụ nhu cầu vận động của hành khách trong không gian đô thị và vùng ngoại ô liền kề.”
Tóm lại: VTHKCC là tập hợp các phương thức vận tải cung cấp cho hành khách để thu tiền cước và chủ thể mục đích tham gia giao thông không phải là người cung ứng dịch vụ vận tải.
Phân loại VTHKCC
Phương tiện vận tải hành khách công cộng có đặc điểm là sức chứa lớn, chuyên chở được nhiều hành khách, phục vụ đông đảo nhân dân thành phố, diện tích chiếm dụng đường rất nhỏ so với các loại phương tiện khác (tính cho một hành khách). Vì vậy, các phương tiện vận tải hành khách công cộng luôn giữ vững vai trò chủ yếu trong việc phục vụ hành khách của thành phố.
Phương tiện vận tải hành khách công cộng có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Chức năng sử dụng, vị trí xe chạy đối với đường phố, đặc điểm xây dựng đường xe chạy, động cơ sử dụng, sức chứa của phương tiện
PHƯƠNG TIỆN VẬN TẢI HKCC
Sức chứa lớn
Sức chứa nhỏ
Xe điện bánh sắt
Tàu khách chạy điện
Tàu điện ngầm
Tàu điện trên cao
Ôtô buýt
Xe điện bánh hơi
Taxi
Xe lam
Xích lô
Xe thô sơ
Vận tải đường ray
Vận tải không ray
Hình 1.1 Sơ đồ phân loại VTHKCC
Đối với nước ta hiện nay, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu, không đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh chóng nên phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt được xem là phương tiện hiệu quả và phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay của nước ta
Vai trò của VTHKCC đối với đô thị
Cùng với đô thị hoá, vai trò của hệ thống VTHKCC ngày càng trở nên quan trọng. Một hệ thống VTHKCC hoạt động có hiệu quả là động lực thúc đẩy quá trình đô thị hoá. Ngựơc lại với một hệ thống VTHKCC yếu kém sẽ là lực cản đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các đô thị. Vai trò của VTHKCC được thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau:
+ VTHKCC tạo thuận lợi cho việc phát triển chung của đô thị.
- Đô thị hoá luôn gắn liền với việc phát triển các khu dân cư, khu công nghiệp thương mại, văn hoá,...kèm theo sự gia tăng cả về phạm vi lãnh thổ và dân số đô thị. Từ đó dẫn đến xuất hiện các quan hệ vận tải với công suất lớn và khoảng cách xa. Khi đó chỉ có hệ thống VTHKCC nhanh, sức chứa lớn mới có thể đáp ứng được nhu cầu đó.
- Ngược lại, nếu không thiết lập được một mạng lưới VTHKCC hợp lý tương ứng với nhu cầu thì sức ép về giải quyết mối giao lưu giữa các khu chức năng đô thị phân bố cách xa trung tâm với công suất luồng hành khách lớn sẽ là lực cản đối với quá trình đô thị hoá. Giới hạn không gian đô thị càng mở rộng thì vai trò của VTHKCC càng thể hiện rõ qua việc rút ngắn thời gian đi lại và đáp ứng nhu cầu của dòng hành khách công suất lớn.
+ VTHKCC là nhân tố chủ yếu để tiết kiệm thời gian đi lại của người dân đô thị, góp phần tăng năng suất lao động xã hội.
- Trong đô thị tần suất đi lại cao và cự ly đi lại bình quân lớn nên tổng hao phí thời gian đi lại của một người dân là đáng kể. Nếu lấy mức đi lại bình quân của một người trong thành phần đi lại tích cực của Hà Nội là 2,2 - 2,5 chuyến/người/ngày và thời gian một chuyến đi là 50 phút thì hao phí thời gian đi lại chiếm 15 - 20 % tổng quỹ thời gian lao động tích cực.
- Ảnh hưởng rõ rệt và trực tiếp của VTHKCC là tác động đến việc tăng năng suất lao động xã hội. Theo tính toán của các chuyên gia GTĐT: Nếu mỗi chuyến xe chậm đi 10 phút thì dẫn đến tổng năng suất lao động xã hội giảm đi từ 2,5 - 4%. Năng suất lao động của công nhân có cự ly đi làm 5km giảm 12% và trên 5km giảm từ 10 - 25% so với những công nhân sống gần nơi làm việc (chỉ cần đi bộ ).
+ VTHKCC đảm bảo an toàn và giữ gìn sức khoẻ cho người đi lại.
- An toàn giao thông gắn liền với hệ thống PTVT và cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông. Hàng năm trên thế giới có chừng 800.000 người thiệt mạng do TNGT. Riêng Việt Nam, mỗi năm xảy ra 8.000 - 12.000 vụ tai nạn giao thông làm thiệt mạng từ 3.000 - 8.000 người, trong đó tỷ lệ đáng kể thuộc hệ thống giao thông đô thị. Ở các thành phố nước ta do số lượng xe đạp, xe máy tăng quá nhanh, mật độ đi lại dày đặc là nguyên nhân chính gây ra hàng nghìn vụ TNGT mỗi năm. Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi ngày có rất nhiều vụ TNGT trong đó 50 - 60% do xe đạp và xe máy gây ra.
+ VTHKCC góp phần bảo vệ môi trường đô thị
- Không gian đô thị thường chật hẹp, mật độ dân cư cao, trong khi mật độ xe có động cơ lại dày đặc. Bởi vậy VTHKCC phải gắn liền với các giải pháp bảo vệ môi trường. Công cộng hoá phương tiện đi lại là một trong những giải pháp hữu hiệu mang tính khả thi nhằm thiểu hoá tác động tiêu cực của GTĐT đến môi trường. Trước hết việc thay thế PTVT cá nhân bằng phương tiện VTHKCC sẽ góp phần hạn chế mật độ ô tô, xe máy - những phương tiện thường xuyên thải ra một lượng lớn khí xả chứa nhiều thành phần độc hại như: Cacbuahiđrô, ôxitnitơ, chì,...
- Trong những năm 90, Uỷ ban môi trường thế giới đã khẳng định tác động đáng kể (Gần 50%) trong việc huỷ hoại môi trường là do khí xả các PTVT gây ra. Như vậy hiệu quả sâu sắc của VTHKCC phải kể đến cả khả năng giữ gìn bầu không khí trong sạch cho các đô thị, hạn chế khí thải, giảm mật độ bụi và chống ùn tắc giao thông,...
+ VTHKCC là nhân tố đảm bảo trật tự an toàn và ổn định
Một người dân thành phố bình quân đi lại 2 - 3lượt/ngày, thậm chí cao hơn (Cự ly từ 1,5 - 2km trở lên). Vì vậy nếu xảy ra ách tắc thì ngoài tác hại về kinh tế, còn ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý chính trị, trật tự an toàn xã hội và ổn định xã hội. Hiệu quả của hệ thống VTHKCC trong lĩnh vực xã hội cũng rất quan trọng và nhiều khi không thể tính hết được.
+ VTHKCC góp phần tiết kiệm quỹ đất đô thị.
Diện tích chiếm dụng đường tính trung bình cho một chuyến đi bằng ôtô buýt là 1,5m2 trong khi đó với xe máy là 10-12m2 và xe con là 18-20m2. Nếu như tất cả mọi người chuyển từ phương tiện cá nhân sang sử dụng dịch vụ VTHKCC thì sẽ tiết kiệm được 20-25% diện tích đường dành cho giao thông.
Sự cần thiết phải phát triển hệ thống VTHKCC
Như ta đã phân tích ở trên về hiệu quả của VTHKCC từ đó thấy rằng VTHKCC có một vai trò rất quan trọng với thành phố Hà Nội nói riêng và nước ta nói chung.
- Ngày nay xã hội ngày càng phát triển văn minh hiện đại thì nhu cầu của con người ngày càng cao, gắn liền với nó là nhu cầu đi lại với nhiều mục đích khác nhau ngày một tăng. Hơn thế nữa quá trình đô thị hoá kèm theo sự gia tăng về quy mô lãnh thổ, dân cư đô thị và gắn liền với quá trình phát triển các khu chức năng khu công nghiệp thương mại, khu dân cư văn hoá,…xuất hiện các quan hệ vận tải với công suất luồng hành khách lớn. Khi đó chỉ có hệ thống VTHKCC mới đáp ứng được những nhu cầu đó.
- Đi kèm với sự phát triển đó là những hậu quả để lại như: ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông ngày một gia tăng. Hầu hết các vụ tai nạn đều xảy ra ở các đô thị đặc biệt là những đô thị lớn và chủ yếu do phương tiện cá nhân gây ra. Do đó việc tăng cường hơn nữa hoạt động xe buýt về: Thời gian phục vụ, chất lượng phục vụ, mạng lưới tuyến,…
- Từ những phân tích trên nhận thấy không còn cách nào khác để giải quyết vấn đề bức xúc của xã hội là hệ thống VTHKCC. Việc phát triển VTHKCC là rất cần thiết và cấp bách.
- VTHKCC không chỉ khắc phục những hậu quả do quá trình đô thị hoá mang lại mà nó còn có nhiều tác động đến lĩnh vực đời sống của một đô thị:
+ Tác động tới nền kinh tế đô thị: Ngành công nghiệp xây dựng, ngành dịch vụ,...
+ Tiết kiệm chi phí: Chi phí đi lại, chi phí do sử dụng phương tiện cá nhân, chi phí sử dụng đất,…
+ Tác động về mặt xã hội: Tạo nhiều việc làm giải quyết lao động dư thừa cho xã hội, giảm thiểu tai nạn tạo niềm tin vững chắc cho người lao động, tạo thói quen sử dụng phương tiện giao thông công cộng cho người dân,…giảm ùn tắc hạn chế ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn góp phần bảo vệ đô thị trong sạch văn minh.
- Ngược lại, nếu ta không thiết lập được mạng lưới VTHKCC hợp lý giải quyết nhu cầu đi lại và những hậu quả để lại thì sức ép về việc giải quyết mối giao lưu giữa các khu chức năng đô thị với công suất luồng hành khách lớn sẽ là lực cản đối với quá trình đô thị hoá.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của phương tiện VTHKCC:
+ Điều kiện luồng tuyến:
- Khác với các ngành khác, môi trường hoạt động của ngành vận tải là trên các con đường, với không gian hoạt động rộng. Do đó mà hoạt động của phương tiện phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện của luồng tuyến: loại đường, số làn đường, mật độ phương tiện trên tuyến, lưu lượng hành khách trên tuyến, số lượng điểm giao cắt,…ảnh hưởng đến thời gian một chuyến, tốc độ khai thác, hệ số sử dụng quãng đường,…
- Mỗi một tuyến đều có những đặc điểm riêng, do đó cần phải chọn phương tiện sao cho phù hợp để nâng cao hiệu suất sử dụng phương tiện.
+ Điều kiện về phương tiện:
- Phương tiện vận tải là công cụ lao động chính trong ngành vận tải, vì vậy mà số lượng phương tiện và chất lượng của phương tiện ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Yếu tố này liên quan đến các chỉ tiêu số lượng và chất lượng khai thác kỹ thuật như: số xe kế hoạch, số xe vận doanh, tốc độ kỹ thuật, sản lượng, hệ số sử dụng sức chứa,…
- Qua điều tra và đánh giá của hành khách đi xe cho thấy. Trước đây, xe xấu bẩn và chất lượng kém là nguyên nhân chính dẫn đến người dân không đi xe buýt. Cho tới hiện nay ngày càng có nhiều người đi xe buýt không phải do giá vé rẻ mà chủ yếu là do chất lượng dịch vụ được nâng cao, đặc biệt là do đầu tư xe mới chất lượng cao (và đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến thu hút được hành khách ngày càng sử dụng phương tiện công cộng). Hàng năm số lượng hành khách tăng lên không ngừng trong khi đó số xe đầu tư mới lại ít như vậy xảy ra tình trạng năng lực đáp ứng chưa đáp ứng kịp so với nhu cầu đi lại thực tế.
+ Tổ chức điều hành:
- Đây là một khâu quan trọng của hoạt động xe buýt hiện nay nó thể hiện hiệu quả hoạt động của xe buýt thông qua độ chính xác của biểu đồ vận hành, sự thuận tiện của hành khách khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ, sự tiện nghi và chất lượng phục vụ của dịch vụ xe buýt công cộng.
- Trước năm 2001 công tác điều hành và quản lý hoạt động của xe trên tuyến được thực hiện là hình thức điều độ phân tán theo kiểu “khoán” hay “định mức” doanh thu cho lái xe từng chuyến trên từng tuyến. Kết quả là toàn bộ mạng lưới xe buýt hoạt động không hiệu quả, thiếu sự liên thông nên không thu hút được hành khách. Từ năm 2001 hoạt động xe buýt ở Hà Nội đã có sự thay đổi về chất và đem lại hiệu quả cao. “phương thức điều độ tập trung” là việc lập kế hoạch vận doanh, biểu đồ vận hành và điều độ tập trung.
- Về hệ thống hành trình chạy xe thì hiện nay Tổng công ty đang áp dụng loại hình hành trình chạy suốt (Từ bến đầu đến bến cuối) chưa có xe buýt nhanh hoặc hành trình rút ngắn. Việc áp dụng hình thức chạy xe như vậy có thuận lợi với công tác tổ chức và điều độ xe hoạt động trên tuyến nhưng với đặc điểm luồng hành khách đi lại ở Hà Nội có sự biến động lớn theo giờ trong ngày và theo chặng trên tuyến nên cần phải kết hợp với các loại hành trình chạy nhanh và rút ngắn, nâng cao được hiệu quả sử dụng phương tiện cũng như chất lượng phục vụ hành khách, giảm chi phí khai thác.
1.1.2. Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt
a. Khái niệm
- Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt: là loại hình VTHKCC sử dụng xe ôtô có sức chứa lớn làm phương tiện vận chuyển, hoạt động theo biểu đồ và hành trình đã được quy định sẵn để phục vụ nhu cầu đi lại của người dân trong thành phố, thu tiền cước theo giá quy định.
- Thời gian biểu và biểu đồ chạy xe: là một công cụ quản lý thường được sử dụng trong Vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, được xây dựng dựa trên các thông số hoạt động của tuyến, như là: thời gian, cự ly hoạt động, giãn cách chạy xe, cự ly của các điểm dừng đỗ trên tuyến. Giúp cho công tác quản lý lái, phụ xe, và quản lý phương tiện khi hoạt động trên hành trình của tuyến.
b. Các hình thức chạy xe trong thành phố
- Xe buýt thông thường: xe buýt sẽ lần lượt dừng lại ở tất cả các điểm dừng trên hành trình, giúp cho hành khách có thể lên xuống tại bất cứ điểm nào đó trên tuyến.
- Xe buýt nhanh: xe chỉ dừng lại ở một số điểm dừng chủ yếu trên tuyến, bỏ qua một số điểm dừng.
- Xe buýt tốc hành: Số điểm dừng trên tuyến ít, chỉ dừng lại ở một số điểm dừng chính, chủ yếu là những điểm trung chuyển.
Xe buýt hoạt đông theo hành trình rút ngắn: theo không gian, theo thời gian, xe buýt không chạy hết hành trình quy định, mà chỉ hoạt động trên một đoạn của hành trình.
c. Mạng lưới hành trình của vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt
- Hành trình: là đường đi của phương tiện từ điểm đầu đến điểm cuối để hoàn thành nhiệm vụ vận tải theo biểu đồ đã quy định, hành trình phải mang tính ổn định lâu dài, để thuận tiện cho quá trình sử dụng của người dân.
- Mạng lưới hành trình: là tập hợp của nhiều hành trình, đảm bảo tính liên thông.
+ Những yêu cầu cơ bản của một tuyến xe buýt trong thành phố
- Chiều dài của tuyến phải nằm trong giới hạn hợp lý, thường gấp 2 - 3 lần chiều dài trung bình một chuyến đi của hành khách.
- Lộ trình của tuyến thì phải được thiết kế đi qua nhiều điểm thu hút hành khách trong thành phố, để phục vụ, được nhiều hành khách hơn.
- Các tuyến xe buýt phải được thiết kế có khả năng nối dài trong tương lai.
- Cơ sở vật chất trên tuyến phải mang tính đồng bộ, sử dụng trong thời gian dài.
+ Điểm dừng trên tuyến
Là những điểm dừng của xe buýt để hành khách lên xuống trên tuyến. Tại điểm dừng phải có nhà chờ, biển báo, những thông tin đầy đủ và cần thiết cho hành khách, giúp cho hành khách thuận tiện trong việc sử dụng xe buýt trong các chuyến đi của thành phố.
d. Những ưu, nhược điểm của VTHKCC bằng xe buýt
- Ưu điểm
+ Tính cơ động cao, không phụ thuộc vào mạng dây dẫn hoặc đường ray, không cản trở và dễ nhập vào hệ thống giao thông đường bộ trong thành phố.
+ Khai thác, điều hành đơn giản, có thể nhanh chóng điều chỉnh chuyến lượt trong thời gian ngắn mà không ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến.
+ Hoạt động có hiệu quả với dòng hành khách có công suất nhỏ và trung bình. Đối với các luồng hành khách có hệ số biến động cao về thời gian và không gian vận tải có thể giải quyết thông qua việc lựa chọn xe thích hợp và một biểu đồ vận hành hợp lý.
+ Vận tải xe buýt cho phép phân chia nhu cầu đi lại ra các tuyến khác nhau trên cơ sở mạng lưới đường thực tế để điều tiết mật độ đi lại chung.
+ Chi phí đầu tư tương đối thấp so với các phương tiện VTHKCC hiện đại. Cho phép tận dụng mạng lưới đường hiện tại của thành phố. Chi phí vận hành thấp nhanh chóng đem lại hiệu quả.
- Nhược điểm:
+ Năng lực vận chuyển không cao, năng suất vận chuyển thấp, tốc độ khai thác còn thấp (15-16km/h) so với xe điện bánh sắt, xe điện ngầm,...Khả năng vận tải thấp trong giờ cao điểm vì dùng bánh hơi.
+ Trong khai thác đôi khi không thuận lợi do thiếu thiết bị, do dừng ở bến, thiếu hệ thống thông tin,...nên không đáp ứng được nhu cầu của hành khách về tiện nghi, độ tin cậy,...
+ Động cơ đốt trong có cường độ gây ô nhiễm cao do: Khí xả, bụi, hoặc nhiên liệu và dầu nhờn chảy ra, ngoài ra còn gây tiếng ồn và chấn động.
1.1.3. Đặc điểm, vai trò của VTHKCC bằng xe buýt
a. Vai trò của VTHKCC bằng xe buýt
- Vận tải xe buýt là loại hình thông dụng nhất trong hệ thống VTHKCC. Nó đóng vai trò chủ yếu trong vận chuyển hành khách ở những vùng đang phát triển của thành phố, những khu vực trung tâm và đặc biệt là ở những thành phố cổ.
- Ngoài chức năng vận chuyển độc lập, nhờ tính năng cơ động, xe buýt còn được sử dụng như một phương tiện chuyển tiếp và vận chuyển kết hợp với các phương thức vận tải khác trong hệ thống VTHKCC cũng như trong hệ thống vận tải đối ngoại của đô thị.
- Trong các thành phố quy mô vừa và nhỏ, xe buýt góp phần tạo dựng thói quen đi lại bằng phương tiện VTHKCC cho người dân thành phố và tạo tiền đề để phát triển các phương thức VTHKCC hiện đại, nhanh, sức chúa lớn trong tương lai.
- Sử dụng xe buýt góp phần tiết kiệm chi phí chung cho toàn xã hội (chi phí đầu tư phương tiện, chi phí điều hành quản lý giao thông, chi phí do lãng phí thời gian do tắc đường,...). Ngoài ra còn nhiều tác động tích cực khách quan đến mọi mặt của đời sống xã hội như: giảm tắc nghẽn giao thông, giảm chi phí đi lại, giảm ô nhiễm môi trường,...
- Kinh nghiệm phát triển giao thông của các đô thị trên thế giới ở thành phố có quy mô dân số nhỏ và trung bình (dưới 1 triệu dân) thì xe buýt là phương tiện VTHKCC chủ yếu. Sở dĩ như vậy là do tính ưu việt hơn hẳn của xe buýt so với phương tiện vận tải cơ giới cá nhân đứng trên quan điểm lợi ích cộng đồng như: Mức độ chiếm dụng đường, vốn đầu tư, chi phí xã hội cho 1 chuyến đi,...
- Do tính hiệu quả cao như vậy, mà chính phủ các nước coi VTHKCC là một hoạt động phúc lợi chung cho toàn xã hội, để đảm bảo môi trường và ưu tiên đầu tư phát triển.
- Theo định hướng phát triển giao thông của thành phố Hà Nội coi việc phát triển hệ thống VTHKCC là biện pháp cơ bản nhất trong việc đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân. Việc chính phủ và UBND thành phố Hà Nội phát triển hình thức vận tải công cộng bằng xe buýt vào hoạt động trong tổ chức VTHKCC là một quyết định đúng đắn. Nó đã đáp ứng được một phần nhu cầu đi lại của người dân, tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Đây được coi là giai đoạn đầu thực hiện quy hoạch phát triển giao thông vận tải nói chung và giao thông đô thị nói riêng ở Hà Nội đến năm 2020, tiến tới xây dựng một mạng lưới giao thông đô thị thuận tiện, an toàn và văn minh.
b. Đặc điểm của VTHKCC bằng xe buýt
- Về phạm vi hoạt động (theo không gian và thời gian).
+ Không gian hoạt động: Các tuyến VTHKCC thường có cự ly trung bình và ngắn trong phạm vi thành phố, phương tiện phải thường xuyên dừng đỗ dọc tuyến để phù hợp với nhu cầu của hành khách.
+ Thời gian hoạt động: Giới hạn thời gian hoạt động của VTHKCC chủ yếu vào ban ngày do phục vụ nhu cầu đi lại thường xuyên như: đi học, đi làm,...
- Về phương tiện VTHKCC
+ Phương tiện có kích thước nhỏ hơn so với cùng loại dùng trong vận tải đường dài nhưng không đòi hỏi tính việt dã cao như phương tiện vận chuyển hành khách liên tỉnh.
+ Do phương tiện chạy trên tuyến đường ngắn, qua nhiều điểm giao cắt, dọc tuyến có mật độ phương tiện cao, phương tiện phải tăng giảm tốc độ, dừng đỗ nhiều lần nên đòi hỏi phải có tính năng động lực và gia tốc cao.
+ Do lưu lượng hành khách lên xuống nhiều, đi trên khoảng cách ngắn cho nên phương tiện thường bố trí cả chỗ ngồi và chỗ đứng. Thông thường chỗ ngồi không quá 40% sức chứa phương tiện, chỗ ngồi phải thuận tiện cho việc đi lại trên phương tiện. Cấu tạo cửa và số cửa, bậc lên xuống và số bậc lên xuống cùng các thiết bị phụ trợ khác đảm bảo cho hành khách lên xuống thường xuyên, nhanh chóng, an toàn và giảm thời gian phương tiện dừng tại mỗi trạm đỗ .
+ Để đảm bảo an toàn và phục vụ hành khách tốt nhất, trong phương tiện thường bố trí các thiết bị kiểm tra vé tự động, bán tự động hoặc cơ giới, có hệ thống thông tin hai chiều (người lái - hành khách) đầy đủ.
+ Do hoạt động trong đô th