Trả lời hệ thống câu hỏi triết học – Lớp trung cấp lý luận chính trị

Câu 1. Định nghĩa vật chất của Lê- Nin và ý nghĩa của nó. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm, ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời giống như mọi phạm trú khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người với sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cữu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Vào thời cổ đại các Triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Ở Trung Hoa cổ đại, các nhà duy vật coi khí là thực thể của thế giới, ở Ấn độ cổ đại phái Nyaya coi nguyên tử là thực thể của thế giới, ở Hy lạp cổ đại Talet coi thực thể của thế giới là nước, Anaximen coi thực thể ấy là khí còn Hêraclit coi thực thể ấy là lửa. Phủ nhận quan điểm thực thể thế giới là một chất cụ thể, coi thực thể thế giới là 4 chất Đất, nước, lửa, không khí. Anaximadrơ cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về chất và vô cùng, vô tận về mặt lượng, đó là aperôn. Đỉnh cao của thuyết duy vật cổ đại về vật chất đó là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrít. Nguyên tử là các phần cực nhỏ, cứng, không thể xâm nhập, không cảm giác được, nguyên tử có thể nhận biết bằng tư duy. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng (Platon) Vật chất là cái không tồn tại, tồn tại là cái phi vật chất, bản nguyên của tinh thần siêu nhiên. Thời kỳ phục hưng đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ thư 17 - 18, vật chất được đồng nhất với vật thể, với nguyên tử hay ête, sự thống trị của quan điểm máy móc, siêu hình về vận động của vật chất. Thời kỳ này trong chủ nghĩa duy tâm đáng kể nhất là Becơli, Hium., Becơli tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể nhận thức tuyên bố "tồn tại nghĩa là được tri giác" Từ nữa thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 trung tâm Triết học chuyển từ Anh và Pháp sang Đức, tại đây chủ nghĩa duy tâm thống trị. Hêghen - nhà duy tâm điển hình xem toàn bộ thế giới tự nhiên, thực tiễn chỉ là sự biểu hiện, sự triển khai ý niệm hay tinh thần tuyệt đối.

doc14 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2341 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trả lời hệ thống câu hỏi triết học – Lớp trung cấp lý luận chính trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1. Định nghĩa vật chất của Lê- Nin và ý nghĩa của nó. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm, ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời giống như mọi phạm trú khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người với sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cữu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Vào thời cổ đại các Triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Ở Trung Hoa cổ đại, các nhà duy vật coi khí là thực thể của thế giới, ở Ấn độ cổ đại phái Nyaya coi nguyên tử là thực thể của thế giới, ở Hy lạp cổ đại Talet coi thực thể của thế giới là nước, Anaximen coi thực thể ấy là khí còn Hêraclit coi thực thể ấy là lửa. Phủ nhận quan điểm thực thể thế giới là một chất cụ thể, coi thực thể thế giới là 4 chất Đất, nước, lửa, không khí. Anaximadrơ cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về chất và vô cùng, vô tận về mặt lượng, đó là aperôn. Đỉnh cao của thuyết duy vật cổ đại về vật chất đó là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrít. Nguyên tử là các phần cực nhỏ, cứng, không thể xâm nhập, không cảm giác được, nguyên tử có thể nhận biết bằng tư duy. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng (Platon) Vật chất là cái không tồn tại, tồn tại là cái phi vật chất, bản nguyên của tinh thần siêu nhiên. Thời kỳ phục hưng đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ thư 17 - 18, vật chất được đồng nhất với vật thể, với nguyên tử hay ête, sự thống trị của quan điểm máy móc, siêu hình về vận động của vật chất. Thời kỳ này trong chủ nghĩa duy tâm đáng kể nhất là Becơli, Hium.., Becơli tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể nhận thức tuyên bố "tồn tại nghĩa là được tri giác" Từ nữa thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 trung tâm Triết học chuyển từ Anh và Pháp sang Đức, tại đây chủ nghĩa duy tâm thống trị. Hêghen - nhà duy tâm điển hình xem toàn bộ thế giới tự nhiên, thực tiễn chỉ là sự biểu hiện, sự triển khai ý niệm hay tinh thần tuyệt đối.. Sự khủng hoảng của thế giới quan trong vật lý cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm vật lý học, quan niệm duy tâm - bất khả tri về cái gọi là "vật chất biến mất." Định nghĩa vật chất của Lênin trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. V.I. Lênin đã định nghĩa "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ một thực tại khách quan được đem lại co con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác". Lập luận của Lênin khẳng định vật chất không biến mất, chỉ có quan niệm cũ xưa lỗi thời về vật chất là không còn phù hợp nữa, cần có một cách hiểu mới về phạm trù vật chất trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học và nhận thức. Vật chất là một phạm trù Triết học bởi vì đó là sự xác định "góc độ" của việc xem xét để tránh nhầm lẫn giữa quan niệm của Triết học về bản chất của vật chất với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu trúc và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau. Với tư cách là một phạm trù Triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện thế giới khách quan và hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vật chất là một phạm trù rộng lớn nhất nên không thể định nghĩa bằng cách thông thường trong logic học, đem quy khái niệm cần định nghĩa về khái niệm rộng hơn. Vật chất chỉ có thể định nghĩa bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức, xem cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào. Vật chất là thực tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức con người. Vật chất là vô cùng vô tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và phong phú mà khoa học ngày càng phát triển thì càng tìm ra, phát hiện thêm những thuộc tính mới của nó. Trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì thuộc tính thực tại khách quan, tức là sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người là thuộc tính chung, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất, chính vì vậy V.I Lênin xem thực tại khách quan là thuộc tính duy nhất của vật chất. Thuộc tính tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất cái gì không phải là vật chất cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất cả những cái gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật chất. Ví dụ: những quan hệ kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất của xã hội... tuy khôngtồn tại dưới dạng vật thể, cũng không mang thuộc tính khối lượng, năng lượng, cũng không có cấu trúc phân tử, nguyên tử những chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức và quyết định ý thức, bởi vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội. Thuộc tính này cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất có tồn tại thật sự, tồn tại do chính nó hay không. Bởi vậy thuộc tính đó là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm. Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh nghĩa là vật chất tồn tại khách quan nhưng không phải tồn tại trừu tượng mà là tồn tại hiện thực, cụ thể, cảm tính. Khi vất chất tác động lên các giác quan của con người thì gây ra cảm giác ở con người, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó, như vậy khả năng nhận thức của con người đối với vật chất chính là xuất phát từ thuộc tính tồn tại cảm tính tức là sự tồn tại của bản thân vật chất. Bởi vậy về nguyên tắc đối với vật chất, thì chỉ có cái con người chưa nhận thức được chứ không thể có cái con người không thể nhận thức được. Đó chính là cơ sở để khoa học đấu tranh chống lại "thuyết không thể biết" Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác tức lànó là nguồn gốc, nguyên nhân của cảm giác, của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên nội dung của ý thức. Còn cảm giác hay ý thức là sự chép lại chụp lại, phản ánh, nó có sau so với vật chất. Rõ ràng vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức. Định nghĩa vật chất của Lênin khắc phục được tính trực quan siêu hình, máy móc trong quan niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, do đó làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển lên một trình độ mới, trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa lịch sử. Định nghĩa này cũng chính cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả để đảm bảo sự đứng vững cho chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển mới của khoa học tự nhiên. Định nghĩa vật chất của Lênin cũng trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học nghiên cứu thế giới vật chất, động viên cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu, khám phá những thuộc tính mới của vật chất. Do vậy, định nghĩa này đã có tác dụng đưa khoa học tự nhiên và nhất là vật lý học thoát khỏi khủng hoảng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 để tiếp tục tiến lên. Cho đến nay, mặc dù khoa học đã tiến lên một bước rất dài so với định nghĩa vật chất của Lênin (được viết trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được Lênin viết năm 1908 và xuất bản năm 1909) nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị . Định nghĩa này vẫn là tiêu chuẩn để phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Câu 2. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay? 1. Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức  Lịch sứ của triết học cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề cơ bản của triết học với hai phạm trù lớn: vật chất và ý thức. Song, để đi đến được những quan niệm, định nghĩa khoa học và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng phải đến một giai đoạn lịch sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghỉa duy vật biện chứng.  Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”  Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời vật chất vận động trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất,là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .  Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội.Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,là sự phản ánh tích cực,tự giác,chủ động,sáng tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.Chính vì vậy,không thể xem xét hai phạm trù này tách rời,cứng nhác, càng không thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,.) là cái có trước ,cái sinh ra và quyết định sự tồn tại ,phát triển của thế giới vật chất.  2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức  - Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có trước,nó sinh ra và quyết định ý thức:  Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn gốc tự nhiên .  Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .  Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức .  -Tác động trở lại của ý thức  Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người .  Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.  Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất .  Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội .  Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý   3. Ý nghĩa phương pháp luận Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó .  Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.  Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.  Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức. Câu 3. Phân tích nội dung cơ bản của cặp phạm trù “Cái chung và Cái riêng”? Ý nghĩa của cặp phạm trù đó với hoạt động thực tiễn của đồng chí? Khái niệm: - Cái riêng: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ định sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. - Cái chung: Là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ. - Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối quan hệ giống nhau được lập lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ. - Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính vốn có chỉ ở mọi sự vật hiện tượng, không lặp lại ở các sự vật hiện tượng khác. Nhờ cái đơn nhất mà con người có thể phân biệt được cái riêng này với cái riêng khác. - Theo quan điểm của CNDVBC mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung thể hiện như sau: Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa là cái chung thực sự tồn tại, nhưng nó chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chứ không tồn tại biệt lập, bên ngoài cái riêng. Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Điều đó có ý nghĩa là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất kỳ cái riêng nào cũng nằm trong mối liên hệ dẫn tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại trong mối liên hệ dẫn tới cái chung, mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó còn liên hệ với cái riêng thuộc loại khác. Thứ ba: Cái chung là bộ phận của cái riêng còn cái riêng không ra nhập hết vào cái chung vì bên cạnh các thuộc tính được lặp lại các sự vật khác, tức là bên cạnh cái chung bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái đơn nhất tức là những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ vốn có ở nó và không tồn tại ở bất kỳ sự vật nào khác. Cái riêng phong phú hơn cái chung, còn cái chung sâu sắc hơn cái riêng. Thứ tư: Trong quá trình phát triển khách quan, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại. Sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung đó là sự ra đời của cái mới. Sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất đó là sự mất dần đi cái cũ. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cặp phạm trù này. Cái chung và cái riêng gắn bó chặt chẽ không thể tách rời nên: - Không được tách cái chung ra khỏi cái riêng. Không được tuyệt đối hóa cái chung. Nếu tuyệt đối hóa cái chung sẽ mắc phải quan điểm sai lầm tả khuynh giáo điều. Muốn tìm ra cái chung phải nghiên cứu từng cái riêng, thông qua cái riêng. Phê phán quan điểm sai lầm của phái duy thực: cho rằng chỉ tồn tại cái chung không phụ thuộc vào cái riêng và sinh ra cái riêng. Cái riêng thì hoặc là không tồn tại, hoặc nếu có tồn tại thì cũng là do cái chung sinh ra va chỉ tạm thời. Cái riêng sinh ra và chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định rồi mất đi, cái chung mới là cái tồn tại vĩnh viễn. - Không được tách rời cái riêng ra khỏi cái chung, không được tuyệt đối hóa cái riêng. Nếu tuyệt đối hóa cái riêng sẽ mắc phải quan điểm sai lầm hữu khuynh xét lại, phê phán quan điểm sai lầm của phái duy danh cho rằng chỉ có cái riêng là tồn tại thực sự còn cái chung chẳng qua chỉ là những tên gọi do lý trí đặt ra trong nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải biết phát hiện ra cái chung gắn liền với bản chất, quy luật vận động phát triển của sự vật. - Phải phát triển ra cái mới tiêu biểu cho sự phát triển và tạo điều kiện cho nó phát triển trở thành cái chung. Ngược lại, hạn chế và đi đến xóa bỏ dần những cái cũ đã lỗi thời, lạc hậu. Câu 4. Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập ? Ý nghĩa của quy luật đối với việc giải quyết những mâu thuẫn đang đặt ở địa phương, đơn vị đồng chí ? Quy luật là những mối liên hệ mang tính bản chất, mối liên hệ tất nhiên lặp lại giữa các nhân tố, các thuộc tính trong những sự vật hay là giữa các sự vật – hiện tượng với nhau. Quy luật gắn liền với nhận thức triết học và là một trong những khai niệm trung tâm của tư duy khoa học, là đối tượng khám phá của mọi nhận thức khoa học. Qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong ba qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra nguồn gốc sự phát triển của các sự vật, hiện tượng được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều là sự thống nhất của các mặt đối lập. Để hiểu rõ hơn qui luật này, ta cần phải nắm được một số khái niệm cơ bản sau: Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt tồn tại trong sự vật có mang những đặc điểm, tính chất biến đổi theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự tồn tại của các mặt đối lập trong sự vật là khách quan và phổ biến. Bất kỳ sự vật nào cũng có hai hoặc nhiều mặt đối lập; và cứ hai mặt đối lập có liên hệ, tác động lẫn nhau thì tạo thành một mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm triết học dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập biện chứng. mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn biện chứng trong hiện thực khách quan và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất của các mặt đối lập. Heghen viết: “Mâu thuẫn, thực tế là cái thúc đẩy thế giới, là cội nguồn của tất cả vận động và sự sống”. C.Mác đã luận chứng và viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”. hơn nữa, mâu thuẫn biện chứng chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Nhấn mạnh điều này, V.I.Lênin đã viết: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Như vậy, cũng có thể xem sự thống nhất của hai mặt đối lập là tính không thể tách rời của hai mặt đó. Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, đồng nhất với nhau. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong một sự vật còn biểu hiện là sự thẩm thấu vào nhau, tạo điều kiện, tiền đề cho nhau phát triển. Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, C.Mác và Ph.Ăngghen viết rằng, giai cấp vô sản và sự giàu có là hai mặt đối lập. Hai cái như vậy hợp thành một khối thống nhất. Cả hai đều là hình thức tồn tại của quyền tư hữu. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Khi nghiên cứu sự thống nhất của các mặt đối lập trong xã hội tư bản, C.Mác và Ph. Ăngghen nói: Người tư hữu là mặt bảo thủ, người vô hữu là mặt phá hoại. người thứ nhất có hành động nhằm duy trì mâu thuẫn, người thứ hai có hành động nhằm tiêu diệt mâu thuẫn. sau khi vạch rõ bản chất của mỗi mặt đối lập của xã hội tu bản, C.Mác và Ph. Ăngghen đã không những chỉ rõ trạng thái của xã hội ấy là thống nhất, mà còn chỉ rõ trạng thái ấy là đấu