Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Các bên nói trên vẫn có trách nhiệm với nhau trong việc bồi thường thiệt hại trước sự kiện gây ra thiệt hại ngoài dự kiến về tài sản hoặc về tinh thần. Cụ thể người gây thiệt hại là người duy nhất phải thực hiện trách nhiệm trước người bị hại và người bị hại có quyền yêu cầu người gây hại phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của mình.
11 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2686 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra trong Tư pháp quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TS. NGUYỄN HỒNG BẮC – Khoa Pháp luật Quốc tế, Đại học Luật Hà Nội
1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra trong Tư pháp quốc tế
Vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự về quan hệ bồi thường thiệt hại mà trước khi xảy ra thiệt hại, các bên chủ thể là bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không có thoả thuận hoặc hợp đồng nào. Các bên nói trên vẫn có trách nhiệm với nhau trong việc bồi thường thiệt hại trước sự kiện gây ra thiệt hại ngoài dự kiến về tài sản hoặc về tinh thần. Cụ thể người gây thiệt hại là người duy nhất phải thực hiện trách nhiệm trước người bị hại và người bị hại có quyền yêu cầu người gây hại phải thực hiện những hành vi nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của mình.
Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giải quyết không trên cơ sở của hợp đồng dân sự (vì không có hợp đồng) mà chỉ giải quyết trên cơ sở của pháp luật quy định là thiệt hại thực tế đã gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế được hiểu là quan hệ trách nhiệm có yếu tố nước ngoài. Quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài là quan hệ trách nhiệm có một trong các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, các bên chủ tham gia trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm bên gây hại và bên bị hại có quốc tịch khác nhau hoặc nơi cư trú khác nhau (đối với cá nhân) hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau (đối với pháp nhân). Ví dụ: Công dân Việt Nam lái ô tô gây thiệt hại cho công dân Hungari về sức khoẻ và tài sản.
Thứ hai, hành vi gây ra thiệt hại hoặc hậu quả thực tế của hành vi gây ra thiệt hại xảy ra ở nước ngoài. Ví dụ: hai công dân Việt Nam đi lao động hợp tác tại Malaixia gây thiệt hai cho nhau về tài sản.
2. Giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài
2.1. Áp dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài.
2.1.1. Theo pháp luật các nước
Trong việc điều chỉnh vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, đa số pháp luật của các nước đều áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi). Tuy nhiên, trong thực tế của đời sống quốc tế thường xảy ra trường hợp là hành vi gây thiệt hại được thực hiện ở nước này nhưng hậu quả của hành vi gây thiệt hại đó lại phát sinh ở một nước khác. Vậy, pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật ở đây sẽ là pháp luật của nước nào. Hiện nay các nước trên thế giới chưa có quan điểm thống nhất đâu được coi là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Cụ thể, pháp luật một số nước quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Italia, Hy lạp). Theo quan điểm này, thì khi giải quyết xung đột pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, các cơ quan Tư pháp của các nước này sẽ áp dụng hệ thuộc luật nơi có hành vi gây thiệt hại xảy ra. Trong khi đó, pháp luật một số nước khác lại quy định nơi vi phạm pháp luật là nơi phát sinh hậu quả thực tế do hành vi gây thiệt hại gây ra (Anh, Hoa Kỳ). Như vậy, ở những nước theo quan điểm này, người ta sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi có hiện diện của hậu quả thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Kết hợp cả hai quan điểm nêu trên, pháp luật của một số nước (Đông âu) quy định áp dụng cả hai loại pháp luật. Đó là pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể pháp luật nước nào có lợi hơn khi áp dụng.
2.1.2. Theo pháp luật Việt Nam
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo hệ thống pháp luật Việt Nam được quy định trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam (Điều 773), Nghị định số 138 – CP ngày 15.12.2005 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Trước hết, vấn đề trách nhiệm bồi thường nói trên được quy định tại Điều 773 Bộ Luật Dân sự. Cụ thể, việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây hại.
Trong trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân nước ngoài tại vùng trời, vùng biển thuộc quyền tài phán của Việt Nam thì việc bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh việc áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti commisi), pháp luật Việt Nam quy định áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của các bên đương sự tức bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại và hệ thuộc luật quốc tịch của phương tiện. Cụ thể: Điều 773 khoản 3: Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại xảy ra ở ngoài lãnh thổ của Việt Nam mà người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều là công dân hoặc pháp nhân Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Việt Nam (Lex Nationalis). Việc bồi thường thiệt hại do tàu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch (lex banderae), trừ trường hợp pháp luật về hàng hải, pháp luật về hàng không của Việt Nam có quy định khác ( Điều 773 khoản 2 ).
Như vậy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luật Tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng pháp luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật với việc kết hợp cả hai quan điểm là theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc theo pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại và áp dụng pháp luật quốc tịch của các đương sự.
2.1.3. Theo điều ước quốc tế
Trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài, bên cạnh giải quyết theo pháp luật Việt Nam như đã nêu trên, Tư pháp quốc tế còn có cách giải quyết khác không kém phần hiệu quả. Đó là cách thức giải quyết trên cơ sở các quy định của điều ước quốc tế. Các quy định của điều ước quốc tế ở đây chủ yếu được kể đến là các quy định quy phạm xung đột pháp luật được ghi trong các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự.
Khi nghiên cứu hiệp định tương trợ tư pháp giưa các nước kí với nhau, cho thấy, các hiệp định này có cách giải quyết tương đối giống nhau trong việc xác định luật giải quyết vấn đề bồi thường. Cụ thể, hiệp định thường chia thành hai trường hơp;
-Trong truờng hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây hại) cùng quốc tịch: các hiệp định ghi nhận việc áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của các bên đương sự để giải quyết;
-Trong truờng hợp các bên chủ thể (người bị hại và người gây hại) khác quốc tịch, áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật.
Hiện nay, Việt Nam đã kí kết Hiệp định tương trợ Tư pháp với khoảng 15 nước. Các Hiệp định cơ bản đều có điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Cụ thể Hiệp định với Liên Xô ( cũ ) tại Điều 33, với Tiệp Khắc tại Điều 33, với Hunggari tại Điều 30, với Bungari tại Điều 31, với Ba Lan tại Điều 38, với Lào tại Điều 23, với Liên Bang Nga tại điều 37, với ucraina tại Điều 33, với Mông Cổ tại Điều 41và với Bêlarút tại Điều 39. Còn lại ba Hiệp định là Hiệp định với Cuba, Hiệp định với Trung Quốc và Hiệp định với Cộng Hoà Pháp không có điều khoản quy định về vấn đề này.
Nội dung của điều khoản quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong các Hiệp định kể trên tương đối thống nhất. Ví dụ, Điều 37 Hiệp định tương trợ tư pháp với Liên Bang Nga năm 1998 quy định :
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do hành vi vi phạm pháp luật) được xác định theo pháp luật của Bên ký kết nơi xảy ra hoàn cảnh làm căn cứ để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nếu nguyên đơn và bị đơn đều là công dân của một Bên ký kết hoặc đều được thành lập hoặc có trụ sở ở một Bên ký kết, thì áp dụng pháp của Bên kí kết đó ”.
Các Hiệp định tương trợ tư pháp với Mông Cổ (Điều 41) với Bungari (Điều 31) với Ba Lan (Điều 38), với Bêlarút (Điều 39) cũng nội dung tương tự như trên.
Riêng Hiệp định tương trợ tư pháp với Hunggari (Điều 30) thì quy định: “ Về trách nhiệm do gây thiệt hại, sẽ áp dụng pháp luật của nước kí kết nơi đã xảy ra hành vi gây thiệt hại. Tuy nhiên, nếu các đương sự thường trú trên lãnh thổ nước kí kết kia thì áp dụng pháp luật của nuớc ký kết kia”. Điều 23 Hiệp định tương trợ tư pháp với Lào cũng có nội dung tương tự như vậy.
Qua các quy định trên cho thấy, trong việc điều chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước thường áp dụng hệ thuộc luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc Luật nhân thân (Lex Personalis) trong đó hoặc áp dụng luật quốc tịch (Lex Nationalis ) hoặc áp dụng luật nơi cư trú (Lex Domicilli).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài việc được quy định trong điều ước quốc tế song phương còn được ghi nhận trong điều ước quốc tế đa phương. Một số điều ước quốc tế đáng chú ý đã được xây dựng như:
+ Công ước Lahaye ngày 2/10/1973 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra. Công ước quy định rõ cơ chế bồi thường thiệt hại nếu sản phẩm, hàng hóa gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất. Tuy nhiên, công ước cũng đưa ra nhiều nguyên tắc chọn luật phức tạp, những nguyên tắc này chỉ được áp dụng với những điều kiện nhất định.
Ví dụ Công ước quy định : Để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm gây ra, có thể áp dụng một trong các hệ thống pháp luật sau :
Luật nơi thường trú của nạn nhân nếu đây cũng là nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 5).
Luật nơi xảy ra thiệt hại nếu đây cũng đồng thời là nơi có trụ sở chính của nhà sản xuất hoặc là nơi mua sản phẩm (điều 4).
Nguyên đơn có quyền lựa chọn luật áp dụng là luật xảy ra thiệt hại hoặc nơi có cơ sở chính của nhà sản xuất (điều 6).
+ Công ước về tai nạn giao thông đường bộ ngày 4/5/1971. Nội dung công ước đề cập đến việc chọn luật áp dụng giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do các phương tiện giao thông gây ra, theo đó luật áp dụng là luật nơi xảy ra tai nạn, hoặc luật nơi đăng ký phương tiện giao thông.
Như vậy, qua nghiên cứu cách giải quyết vấn đề bồi thiệt thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật một số nước, pháp luật Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế song phương và đa phương, chúng ta nhận thấy, nguyên tắc áp dụng chủ yếu để giải quyết vấn đề này là Luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại (Lex loci delicti Commissi). Việc áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có những ý nghĩa nhất định :
Thứ nhất, nguyên tắc lex loci delicti Commissi thể hiện tính khách quan, trong trường hợp bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại không cùng quốc tịch hoặc nơi cư trú thì áp dụng nguyên tắc này là phù hợp.
Thứ hai, việc xác định nơi xảy ra thiệt hại thuận lợi dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết của toà án. Toà án có thể dễ dàng hơn trong việc điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh về thiệt hại…đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của bên bị thiệt hại.
Thứ ba, nhìn chung thì nơi xảy ra thiệt hại là nơi có mối quan hệ gần gũi nhất đối với loại tranh chấp trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xét về tính chất loại vụ việc thì áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại là quy phạm thể hiện đúng bản chất của quan hệ. Do vậy ưu điểm nổi bật của nguyên tắc này là đơn giản, dễ áp dụng, chắc chắn và có thể dự tính trước trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nguyên tắc lex loci delicti Commissi được áp dụng trong pham vi rất rộng. Có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra thiệt hại để xác định các vấn đề sau:
- Thế nào là sự kiện hay hành vi gây thiệt hại? Trên thực tế có hành vi ở quốc gia này được coi là hợp pháp (không vi phạm pháp luật), nhưng ở quốc gia khác lại được coi là hành vi bất hợp pháp. Nói cách khác, phải có hành vi gây thiệt hại trên thực tế mới có căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Xác định lỗi của các bên: lỗi cố ý hay vô ý, lỗi do người bị thiệt hại gây ra hay do bên thứ ba, lỗi nặng hay lỗi nhẹ…
- Xác định các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại như trách nhiệm bồi thường do người gây ra, hoặc do tài sản thuộc quyền quản lý, sở hữu gây ra, hoặc trách nhiệm do vật nuôi, phương tiện giao thông, hoặc do sản phẩm hàng hóa gây ra…
- Nguyên tắc, cách thức bồi thường thiệt hại.
- Các hình thức chế tài
- Cách thức khởi kiện đối với các công ty bảo hiểm.
- Thời hiệu khởi kiện.
Nói chung, để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều có thể căn cứ vào luật nơi xảy ra hành vi hoặc sự kiện gây thiệt hại.
Tuy nhiên, có một điểm cần chú ý, trong trường hợp quy phạm xung đột chỉ dẫn áp dụng luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại là luật áp dụng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì chỉ áp dụng hệ thống pháp luật thực chất (luật nội dung) của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại, không áp dụng các quy phạm xung đột của tư pháp quốc tế, nói cách khác trong lĩnh vực này cũng không chấp nhận hiện tượng dẫn chiếu ngược.
Điều này là hoàn toàn hợp lý vì mục đích của việc xây dựng quy phạm xung đột điều chỉnh các quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề, tạo điều kiện thuận lợi cho toà án giải quyết vụ việc đồng thời cũng đảm bảo được lợi ích của các bên, vì nhìn chung đây cũng là hệ thống luật có quan hệ gần nhất đối với vụ việc. Giả thiết rằng, nếu thừa nhận việc dẫn chiếu ngược thì mục đích của quy phạm không đạt được, gây khó khăn trong việc giải quyết và không đảm bảo được lợi ích của người bị thiệt hại.
Tuy nhiên khi áp dụng nguyên tắc này cũng xảy ra một số trường hợp Ngoại lệ. Để giải quyết xung đột trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ngoài nguyên tắc luật nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại thì tư pháp quốc tế cũng xây dựng một số nguyên tắc khác để giải quyết xung đột pháp luật trong một số trường hợp đặc thù. Đó là: Trong những trường hợp không xác định được nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Đây là trường hợp khi nơi xảy ra thiệt hại không thuộc lãnh thổ quốc gia nào cả, các học giả thường viện dẫn đến các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp đối với các phương tiện vận tải như tai nạn máy bay, va quyệt tàu biển ở vùng không phận hoặc hải phận quốc tế.
Trong những trường hợp này, không thể xác định được nơi xảy ra thiệt hại cho nên không áp dụng luật nơi xảy ra thiệt hại mà áp dụng luật nơi đăng ký tàu bay, tàu biển (luật quốc tịch của máy bay, tàu biển) để giải quyết các vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Theo Điều 773 khoản 2 Bộ luật Dân sự 2005 quy định :‘’Việc bồi thường thiệt hại do tầu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả được xác định theo pháp luật của nước mà tàu bay, tàu biển mang quốc tịch, trừ trường hợp pháp luật về hàng không dân dụng và pháp luật về hàng hải của Việt Nam có quy định khác’’ [1]
2.2. Áp dụng quy phạm thực chất để giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra có yếu tố nước ngoài.
Việc áp dụng pháp luật thực chất của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài ở đây được hiểu là áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất trong đó xác định rõ quyền đòi bồi thường thiệt hại của bên bị thiệt hại và trách nhiệm phải bồi thường của bên gây thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể. Việc áp dụng này chỉ đặt ra khi các quy phạm xung đột pháp luật của Việt Nam hoặc của nước ngoài hoặc của điều ước quốc tế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có yếu tố nước ngoài dẫn chiếu đến. Các cơ quan Tư pháp cũng như các bên đương sự có nhiệm vụ thực hiện việc áp dụng đó để giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói trên một cách cụ thể để dảm bảo sự công bằng và lợi ích của bên bị thiệt hại. Trong quá trình áp dụng pháp luật thực chất của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường có yếu tố nước ngoài, một số yêu cầu luôn được đặt ra là :
- Việc áp dụng phải đảm bảo đầy đủ các quy định của pháp luật bao gồm các quy định trong Bộ Luật Dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ Luật Dân sự cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như hàng không, hàng hải, thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ v.v..
- Nội dung áp dụng phải đúng theo nội dung đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, phải đúng với các quy định tại Bộ Luật Dân sự về trách nhiệm, nguyên tắc, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; cách thức xác định thiệt hại và đặc biệt mỗi thiệt hại khi xảy ra phải được áp dụng theo đúng với từng loại thiệt hại được quy định cụ thể trong Bộ Luật Dân sự cũng như được quy định trong từng phạm vi và lĩnh vực của các văn bản quy phạm pháp luật khác của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
- Đối với điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, trong đó có quy phạm thực chất thống nhất quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì khi có vụ việc phát sinh vấn đề bồi thường thiệt hại sẽ áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó để xác định thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại. [2]
Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Tư pháp quốc tế bao gồm quy phạm xung đột và quy phạm thực chất, song chủ yếu là các quy phạm xung đột nhằm điều chỉnh bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nhiệm vụ chủ yếu của loại quy phạm pháp luật này là lựa chọn hệ thống pháp luật cần phải được áp dụng để giải quyết quan hệ trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói trên. Hệ thống pháp luật trong trường hợp này là thường là Luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật (Lex loci delicti Commissi) hoặc luật nhân thân ( Lex personalis – Lex Nationalis hoặc Lex Domicilli ), tuy nhiên luật nơi xảy ra hành vi vi phạm pháp luật vẫn được áp dụng chủ yếu.
3. Định hướng sửa đổi và hoàn thiện các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra trongTư pháp quốc tế Việt Nam
Qua thi hành các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản gây ra cho thấy, các quy định về trách nhiệm này đã từng bước đi vào cuộc sống góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm, góp phần làm lành mạnh quan hệ xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện các quy định đó đã bộc lộ bất cập, hạn chế nhất định. Đó là những vướng mắc về việc xác định mức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về vật chất trong Luật dân sự và việc áp dụng Luật dân sự theo quy định của Tư pháp quốc tế. Từ đó vấn đề bức xúc đặt ra là phải sửa đổi và hoàn thiện các quy định trong Tư pháp quốc tế để đáp ứng những yêu cầu giao lưu dân sự trong tình hình hội nhập quốc tế. Dưới đây xin nêu một vài ý kiến cụ thể.
3.1. Về hoàn thiện pháp luật:
- Về quy phạm xung đột, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định dưới dạng quy phạm xung đột được ghi nhận ở Điều 773 Bộ Luật Dân sự. Theo quy định của Điều này, thì việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định theo pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây thiệt hại. Quy định trên không nêu thứ tự ưu tiên áp dụng hệ thuộc luật nào nên có thể lựa chọn pháp luật của nước này hoặc nước kia là do ý muốn chủ quan của cơ quan Tư pháp. Do vậy, định hướng sửa đổi về vấn đề này là thống nhất áp dụng pháp luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại. Còn việc áp dụng pháp luật của nước nơi phát sinh hậu quả thực tế của hành vi gây hại chỉ đặt ra khi không xác định được nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại.
Còn khoản 2 Điều 773 không nên quy định việc bồi thường thiệt hại do tầu bay, tàu biển gây ra ở không phận quốc tế hoặc biển cả, vì quy định