KN-070618 -Hôm nay, ngày 18/6/2007, tòa án New York bắt đầu nghe
vụ kiện do Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đệ đơn kiện 32 công ti hóa
học từng sản xuất và cung cấp hóa chất, kể cả chất độc màu da cam, sử dụng trong
thời chiến kéo dài suốt 10 năm (từ 1961-1971). Phiên tòa thu hút sự chú ý của thế
giới và ngay cả quốc hội Mĩ, vì thời điểm của phiên tòa diễn ra trùng hợp với
chuyến thăm chính thức nước Mĩ của chủ tịch Nguyễn Minh Triết. Ngoài dư luận
ủng hộ phía nguyên đơn (tức Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam), giới cựu
chiến binh Hàn Quốc, New Zealand, và Úc cũng theo dõi xem phán quyết của tòa
án vì họ cũng có dự định kiện các công ti hóa chất Mĩ do những phơi nhiễm mà họ
chịu phải trong thời chiến.
Khó có thể đoán trước kết quả phiên tòa ra sao, nhưng kinh nghiệm trong
quá khứ cho thấy vấn đề chất độc da cam chưa bao giờ được thảo luận đến nơi đến
chốn ở pháp đình. Hơn hai năm trước, tháng 3 năm 2005, vụ kiện chất độc da cam
không được xét xử vì theo Thẩm phán Jack Weinstein, “Các yêu sách của phía
nguyên đơn không có cơ sở pháp lí dưới bất cứ luật nội địa, hay luật quốc gia, hay
luật tiểu bang, hay luật quốc tế. Vụ kiện không được xét xử.” Hơn 20 năm về
trước khi các cựu chiến binh Mĩ kiện các công ti hóa chất Mĩ về những tác hại sức
khỏe mà họ chịu phải khi tham gia vào chiến dịch phun độc chất, và vụ kiện được
kết thúc bằng một thỏa thuận ngoài tòa mà theo đó các công ti hóa chất đồng ý lập
ra một quĩ y tế xã hội nhằm trợ cấp cho các cựu chiến binh Mĩ từng bị ảnh hưởng
bởi chất độc da cam.
5 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn
đề chất độc da cam
Nguyễn Văn Tuấn
YKN-070618 - Hôm nay, ngày 18/6/2007, tòa án New York bắt đầu nghe
vụ kiện do Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đệ đơn kiện 32 công ti hóa
học từng sản xuất và cung cấp hóa chất, kể cả chất độc màu da cam, sử dụng trong
thời chiến kéo dài suốt 10 năm (từ 1961-1971). Phiên tòa thu hút sự chú ý của thế
giới và ngay cả quốc hội Mĩ, vì thời điểm của phiên tòa diễn ra trùng hợp với
chuyến thăm chính thức nước Mĩ của chủ tịch Nguyễn Minh Triết. Ngoài dư luận
ủng hộ phía nguyên đơn (tức Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam), giới cựu
chiến binh Hàn Quốc, New Zealand, và Úc cũng theo dõi xem phán quyết của tòa
án vì họ cũng có dự định kiện các công ti hóa chất Mĩ do những phơi nhiễm mà họ
chịu phải trong thời chiến.
Khó có thể đoán trước kết quả phiên tòa ra sao, nhưng kinh nghiệm trong
quá khứ cho thấy vấn đề chất độc da cam chưa bao giờ được thảo luận đến nơi đến
chốn ở pháp đình. Hơn hai năm trước, tháng 3 năm 2005, vụ kiện chất độc da cam
không được xét xử vì theo Thẩm phán Jack Weinstein, “Các yêu sách của phía
nguyên đơn không có cơ sở pháp lí dưới bất cứ luật nội địa, hay luật quốc gia, hay
luật tiểu bang, hay luật quốc tế. Vụ kiện không được xét xử.” Hơn 20 năm về
trước khi các cựu chiến binh Mĩ kiện các công ti hóa chất Mĩ về những tác hại sức
khỏe mà họ chịu phải khi tham gia vào chiến dịch phun độc chất, và vụ kiện được
kết thúc bằng một thỏa thuận ngoài tòa mà theo đó các công ti hóa chất đồng ý lập
ra một quĩ y tế xã hội nhằm trợ cấp cho các cựu chiến binh Mĩ từng bị ảnh hưởng
bởi chất độc da cam.
Nhưng bất kể kết quả phiên tòa ra sao, một thực tế không thể chối cãi được
là qua nhiều nghiên cứu trong ba thập niên qua, dioxin và chất độc da cam gây ra
nhiều tác hại đến sức khỏe con người. Viện y khoa Mĩ (Institute of Medicine)
thuộc Viện hàn lâm khoa học Mĩ duyệt qua các nghiên cứu trong quá khứ và đi
đến kết luận rằng chất độc da cam hay dioxin là nguyên nhân gây ra một số bệnh
như ung thư tế bào mềm, ung thư máu dạng Non-Hodgkin và Hodgkin, ung thư
tuyến tiền liệt, ban clor, chứng nứt đốt sống, v.v
Trong vòng 2 năm qua cũng có một số nghiên cứu cho thấy chất độc da
cam có thể kéo dài hàng năm thập niên. Chẳng hạn như một nghiên cứu mới nhất
(công bố năm ngoái) cho thấy các cựu chiến binh Mĩ từng trực tiếp phun chất độc
màu da cam có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, bệnh tim, cao huyết áp, và các bệnh
mãn tính đường hô hấp cao hơn những cựu chiến binh khác khoảng 50% đến
100%. Trong một bài báo khoa học gần đây công bố trên tập san dịch tễ học
International Journal of Epidemiology, nghiên cứu sinh bác sĩ Ngô Đức Anh (Hà
Nội) và tôi phân tích dữ liệu từ 21 công trình nghiên cứu từ Mĩ, Úc và Việt Nam
liên quan đến ảnh hưởng của chất độc da cam và dị tật bẩm sinh. Chúng tôi phát
hiện rằng những bà mẹ hay cha bị phơi nhiễm độc chất da cam trong thời chiến có
nguy cơ sinh con với dị tật bẩm sinh tăng gấp 2-3 lần so với những người không bị
phơi nhiễm.
Nói tóm lại, tác hại của chất độc da cam đến con người là một thực tế hiển
nhiên. Không chỉ ở Mĩ mà còn ở Việt Nam. Chỉ cần đến những vùng bị phun độc
chất nhiều trong thời chiến sẽ thấy tần số trẻ em với dị tật bẩm sinh, ung thư, và
các bệnh ngặc nghèo khác sẽ thấy ngay hệ quả của việc sử dụng chất màu da cam
một cách bừa bãi. Thật ra, có bằng chứng cho thấy giới khoa học quân sự Mĩ biết
trước tác hại của chất độc da cam. Tiến sĩ James R. Clary, thuộc cơ quan nghiên
cứu vũ khí hóa học (Chemical Weapons Branch) trực thuộc Airforce Armament
Development Laboratory (Florida), viết như sau: “Lúc chúng tôi (các nhà khoa
học quân đội) khởi xướng chương trình khai quang vào thập niên 1960, chúng tôi
biết tiềm năng độc hại của chất dioxin chứa trong thuốc diệt cỏ. Chúng tôi còn
biết rằng công thức mà giới quân sự dùng có nồng độ cao hơn nồng độ mà giới
dân sự dùng, vì chi phí rẻ và thời gian sản xuất ngắn. Tuy nhiên, vì hóa chất sẽ
được dùng trên kẻ thù, không ai trong chúng tôi quan tâm thái quá. Chúng tôi
không bao giờ nghĩ là quân đội chúng ta lại bị nhiễm độc chất. Và, nếu chúng tôi
nghĩ đến tình huống này, chúng tôi mong muốn chính phủ chúng ta giúp đỡ các
cựu chiến binh bị nhiễm độc chất.”
Báo chí Tây phương cho rằng vấn đề chất độc da cam đang là một vấn đề
gai góc trong mối quan hệ đa chiều giữ Việt Nam và Mĩ. Tôi không nghĩ như thế,
vì vấn đề này có thể giải quyết một cách thỏa đáng nếu các công ti hóa học và
chính phủ Mĩ có thiện chí. Thật ra, Quốc hội Mĩ đã có thiện chí giải quyết vấn đề
qua vài tuyên bố gần đây của các quan chức Mĩ, nhưng các công ti hóa học vẫn
chưa chịu nhận lãnh trách nhiệm. Những việc làm có ý nghĩa mà các công ti liên
quan đến vấn đề chất độc da cam có thể thực hiện được là giúp đỡ cho những nạn
nhân bị nhiễm độc chất và bị những bệnh được công nhận là do độc chất da cam
hay dioxin gây ra. Năm 1984, các công ti hóa học [có liên quan đến việc sản xuất
và cung cấp độc chất da cam cho quân đội Mĩ] đồng ý bồi thường cho các cựu
quân nhân Mĩ một số tiền khoảng 180 triệu Mĩ kim. Ở Việt Nam, hình thức bồi
thường có thể bao gồm việc điều trị những bệnh được công nhận là do phơi nhiễm
độc chất gây ra, tạo công ăn việc làm cho những cư dân trong các vùng bị nhiễm,
lập bệnh xá và trường học để nâng cao đời sống vật chất và trình độ văn hóa cho
nạn nhân và cư dân tại những nơi bị nhiễm độc chất.
Một cách giúp đỡ khác là các công ti lập một ngân quĩ để làm sạch môi
trường tại những nơi bị nhiễm nặng như Biên Hòa, A Lưới, A Sao, v.v... Năm
1976, ở Ý sau vụ tai nạn kĩ nghệ xảy ra tại nhà máy gần thị trấn Seveso làm thải ra
môi trường chung quanh khoảng 30 kg dioxin. Ấy thế mà cho đến nay, tức gần 30
năm sau tai nạn đó và sau 30 năm làm sạch môi trường, các nhà nghiên cứu Ý vẫn
phát hiện tác hại của dioxin trong sức khỏe người dân. Ở Việt Nam hiện nay, kết
quả của nhiều nghiên cứu cho thấy tại các địa điểm này, nồng độ dioxin rất cao, có
khi cao hơn 130 lần nồng độ an toàn cho phép, vì chất độc đã lắng đọng xuống
lòng đất, nhất là các nơi bùn lầy. Do đó, nhu cầu làm sạch môi trường tại những
nơi này phải được xem là một ưu tiên hàng đầu.
Cái nghịch lí cơ bản của chiến tranh là trong khi nạn nhân thì quằn quại với
khổ đau, thì một bộ phận phục vụ cho chiến tranh lại ăn nên làm ra. Đối với người
lính ngoài chiến trường, hay người dân bị kẹt trong giữa hai lằn đạn, chiến tranh
đồng nghĩa với sự chết chóc, thương vong. Nhưng đối với các công ti sản xuất và
buôn bán vũ khí, kể cả hóa chất dùng cho hủy diệt môi sinh núp dưới danh nghĩa
“khai quang”, chiến tranh là một thương trường lí tưởng, một cơ hội thương mại
để mở rộng hoạt động sản xuất và thị trường vũ khí. Tất cả những hóa chất khai
quang độc hại được các công ti sản xuất theo đơn đặt hàng của bộ máy quân sự Mĩ
đều được sản xuất dưới danh nghĩa “ái quốc”. Cái mô hình ái quốc nguy hiểm đó
đã đem đến không biết bao nhiêu thảm cảnh cho người Việt Nam! Ấy thế mà cho
đến nay không một ai phía Mĩ có hành động gì để xoa dịu nỗi đau của nạn nhân
vẫn còn đang quằn quại với độc chất!
Năm 1864, khi Abraham Lincoln đắc cử tổng thống, Karl Marx đại
diện cho Hiệp hội Công nhân Quốc tế (International Workingmen's
Association) gửi lời chúc mừng. Lúc đó, Charles Francis Adams, một bộ
trưởng của Mĩ ở Luân Đôn thay mặt Lincoln trả lời Marx: “Chính phủ Mĩ ý
thức sâu sắc rằng chính sách của Mĩ, hiện nay cũng như trong quá khứ
[] là phấn đấu cho sự bình đẳng và công lí đúng đắn cho tất cả các nhà
nước, tất cả con người [...] Quốc gia không phải tồn tại một cách riêng lẻ
và chỉ cho riêng quốc gia đó; quốc gia tồn tại để cổ vũ cho sự thịnh vượng
và hạnh phúc của nhân loại bằng những hợp tác nhân đạo.”
Dù có nhiều mâu thuẫn trong cách hành xử quốc tế, nước Mĩ là một quốc
gia hào hiệp và sòng phẳng. Khả năng mà Mĩ có ảnh hưởng tích cực đến thế giới
tùy thuộc vào uy tín đạo đức của Mĩ. Nước Đức thời hậu chiến ghi nhận trách
nhiệm của Đức trong thế chiến thứ II, không chỉ vì nạn nhân của chiến tranh, mà
còn vì tương lai nước Đức. Người Đức hiểu rằng một quốc gia không dám nhìn
nhận cái sai trái của mình trước con em mình và trước thế giới thì không thể nào
khôi phục đạo đức được. Mĩ là một quốc gia được xây dựng trên nền tảng dân chủ
và sự thật, và không có lí do gì ngăn cản Mĩ nhận lãnh trách nhiệm về sai lầm và
những hệ quả nghiêm trọng của chất độc da cam ở Việt Nam bằng những hành
động thực tế và thiết thực cho nạn nhân độc chất.