Tóm tắt
Trong nền kinh tế tri thức, giáo dục - đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay đang đặt ra cho sự nghiệp giáo dục - đào
tạo cần có những thay đổi to lớn, toàn diện, triệt để trên mọi phương diện. Trong khuôn khổ bài viết
này, trên tinh thần khai phóng, chúng tôi tập trung trao đổi về việc xây dựng các phương châm, triết
lý đào tạo ở cấp độ đại học - cấp đào tạo tiệm cận nhất với quá trình sử dụng nhân lực trong đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước. Những triết lý đào tạo theo hướng “tư tưởng” như: “nhân bản - sáng tạo
- hội nhập” hay theo hướng “hành động” như: “thái độ - kiến thức - kỹ năng”, “thay đổi tư duy - khơi
nguồn sáng tạo” sẽ được trình bày khái quát trong bài viết này để góp phần làm rõ nội hàm của nền
giáo dục khai phóng; đáp ứng những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam
hiện nay.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 316 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết lý đào tạo đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
72
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
TRIẾT LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
DƯƠNG VĂN SÁU
Tóm tắt
Trong nền kinh tế tri thức, giáo dục - đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
đất nước. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay đang đặt ra cho sự nghiệp giáo dục - đào
tạo cần có những thay đổi to lớn, toàn diện, triệt để trên mọi phương diện. Trong khuôn khổ bài viết
này, trên tinh thần khai phóng, chúng tôi tập trung trao đổi về việc xây dựng các phương châm, triết
lý đào tạo ở cấp độ đại học - cấp đào tạo tiệm cận nhất với quá trình sử dụng nhân lực trong đời sống
kinh tế - xã hội của đất nước. Những triết lý đào tạo theo hướng “tư tưởng” như: “nhân bản - sáng tạo
- hội nhập” hay theo hướng “hành động” như: “thái độ - kiến thức - kỹ năng”, “thay đổi tư duy - khơi
nguồn sáng tạo” sẽ được trình bày khái quát trong bài viết này để góp phần làm rõ nội hàm của nền
giáo dục khai phóng; đáp ứng những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam
hiện nay.
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, triết lý đào tạo, đào tạo đại học, giáo dục khai phóng
Abstract
In the knowledge economy, education - training plays an extremely important role for the
development of the country. The fourth industrial revolution is currently set for the cause of education
and training needs of enormous, comprehensive and thorough changes in all aspects. In this article,
based on the spirit of liberation, we focus on discussing the development of the educating motto
and philosophy at the university level - which is closest to the process of using human resources in
the socioeconomic life of the nation. The educating philosophies that is in the direction of “thought”
such as “humanity - creativity - integration” or philosophies that follow “action” such as: “attitude -
knowledge - skill”, “change of thinking way - leading creativity ... ... will be presented briefly in this
article to contribute to clarifying the content of liberal education; meet the requirements of the fourth
Industrial Revolution in Vietnam today.
Keywords: Industrial Revolution 4.0, philosophy of educating, higher education, liberal education
1. Đặt vấn đề
Cho đến nay, loài người đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp và đang bước vào cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (The Fourth Industrial
Revolution) (CMCN 4.0). Đây sẽ là kỷ nguyên
công nghiệp mới, được mô tả như là sự ra đời
của một loạt các công nghệ mới trong tất cả
các lĩnh vực của nền kinh tế. Đây cũng là quá
trình kết hợp tất cả các kiến thức tinh hoa
trong các lĩnh vực sinh học, vật lý học, kỹ thuật
số hóa; từ đó tạo ra những đột phá về công
nghệ trong các lĩnh vực hiện đại của xã hội
loài người, như robot, trí tuệ nhân tạo, xe tự lái,
internet, công nghệ nano v.v.
Là người sáng lập và là Chủ tịch điều hành
Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economic
Forum), giáo sư Klaus Schwab trong cuốn
sách Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
đã mô tả sự khác biệt cơ bản của cuộc CMCN
73Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
thành lập Trường ĐHVHHN
4.0 với ba lần trước. Sự khác biệt lớn nhất là
những tiến bộ trong công nghệ có khả năng
mở rộng sự kết nối hàng tỷ người trên trái
đất thông qua Internet. Thông qua đó giúp
thay đổi, cải thiện đáng kể công tác tổ chức
sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh một cách tối ưu. Từ đó cũng giúp cho
việc tăng cường bảo vệ và tái tạo môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội thông qua cách
thức quản lý tốt hơn các tài sản của mình, tạo
ra các chuỗi giá trị sử dụng hữu ích nhất cho
con người. Do các điều kiện đặc thù, mỗi quốc
gia đều có cách tiếp cận riêng của mình đối
với cuộc CMCN 4.0, nhưng dù sao, tất cả đều
phải dựa vào nhân tố khoa học, công nghệ và
đổi mới sáng tạo làm yếu tố cốt lõi. Tuy nhiên,
mỗi quốc gia lại có mục tiêu và bước đi riêng:
Nếu CMCN 4.0 của nước Đức lấy mục tiêu phát
triển công nghiệp làm trọng tâm (Industry 4.0)
thì các quốc gia châu Á cũng có những quan
điểm tiếp cận mới theo các hướng khác nhau:
Nhật Bản hướng tới Xã hội 5.0 (Society 5.0). Xã
hội 5.0 là xã hội siêu thông minh (Super Smart
Society) trong đó lấy con người làm trung tâm.
Trong khi Hàn Quốc hướng tới Kinh tế sáng tạo
(Creative Economy), Trung Quốc đặt mục tiêu
chiến lược sản xuất sản phẩm, hàng hóa mang
thương hiệu quốc gia (Made in China: MIC
2025) thì Singapore hướng tới xây dựng Quốc
gia thông minh (Smart Nation) v.v.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập
sâu rộng với thế giới, chúng ta cũng không thể
đứng ngoài cuộc CMCN 4.0. Tham gia tiến trình
hội nhập cùng CMCN 4.0, Diễn đàn Kinh tế thế
giới xếp Việt Nam vào Nhóm quốc gia sơ khởi
nhưng tiệm cận rất gần với Nhóm có triển vọng
cao với xếp hạng 48/100 về cấu trúc của nền
sản xuất và 53/100 về các yếu tố dẫn dắt sản
xuất (1). Cũng theo Diễn đàn Kinh tế thế giới
năm 2015, Việt Nam đứng thứ 85/143 quốc gia
được xếp hạng về chỉ số sẵn sàng về hạ tầng
mạng (Network Readiness Index) (5). Đây là một
thách thức vô cùng lớn đối với một đất nước
đang trong quá trình phát triển như chúng ta.
Vì vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh
CMCN 4.0, Việt Nam cần tìm được hướng đi,
giải pháp riêng phù hợp với điều kiện và nhu
cầu thực tiễn của mình để chủ động nắm bắt
thời cơ và vượt qua thách thức.
Để làm được điều đó cần có tầm nhìn chiến
lược và hành động quyết liệt. Thủ tướng Chính
phủ Nguyễn Xuân Phúc khi tham dự Diễn đàn
cấp cao và Triển lãm quốc tế về CMCN 4.0 diễn
ra tại Hà Nội ngày 13/7/2018 vừa qua, đã nhấn
mạnh: “Việt Nam cần chuyển mạnh từ nhận diện
sâu sắc sang tầm nhìn chiến lược và hành động
quyết liệt, khẩn trương” (1) để không bỏ lỡ cơ
hội hội nhập trong thời kỳ hiện đại và đủ sức
lực “lên kịp chuyến tàu” CMCN 4.0 với các nước
trong khu vực và thế giới. Điều đó đặt ra nhiệm
vụ vô cùng to lớn, đặc biệt quan trọng trong
giáo dục - đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực
cho đất nước trong tiến trình hội nhập, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước.
Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ
tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực
tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
4, đã đưa ra các giải pháp trong đó có các giải
pháp về giáo dục, đào tạo: “Thay đổi mạnh mẽ
các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục
và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả
năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất
mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào
tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học
(STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình
giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học,
dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề,
đào tạo đại học đối với một số ngành đặc thù.
Biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng
thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao
động quốc tế” (8, tr.3).
Sở dĩ Thủ tướng Chính phủ chỉ thị như vậy
vì những năm gần đây, giáo dục STEM (Science
- Technology - Engineering - Maths: khoa học -
công nghệ - kỹ thuật - toán học) đã và đang phát
triển mạnh mẽ ở rất nhiều nơi trên đất nước
ta, từ thành thị tới nông thôn. Giáo dục STEM
về bản chất được hiểu là trang bị cho người
học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên
quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ
74
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
thuật và toán học theo cách tiếp cận liên môn
(interdisciplinary). Hình thức giáo dục này giúp
cho giới trẻ Việt Nam tiếp cận gần hơn, nhanh
hơn với những thay đổi của cuộc CMCN 4.0. Chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ cũng giao nhiệm
vụ cụ thể cho Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Thúc
đẩy triển khai giáo dục về khoa học, công nghệ,
kỹ thuật và toán học (STEM) trong chương trình
giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số
trường phổ thông ngay từ năm học 2017 - 2018.
Nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy trong
các cơ sở giáo dục đại học; tăng cường giáo dục
những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng
tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4” (8, tr.4).
Để ngành giáo dục đào tạo có thể hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong cuộc
cách mạng này, có rất nhiều việc phải làm,
trong đó trước hết phải thay đổi tư duy, phải
khơi nguồn sáng tạo cho cả người dạy, người
học và người đảm bảo, phục vụ. Công việc đó
bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức, xây dựng và
củng cố triết lý đào tạo tương thích với yêu cầu
và nhiệm vụ đặt ra.
2. Triết lý đào tạo là gì?
CMCN 4.0 là cuộc cách mạng của khoa học
và công nghệ. Trong cuộc cách mạng này,
nguồn lực con người sẽ quyết định sự thành
bại của quốc gia trong cuộc đua phát triển
để mang lại sự thịnh vượng cho đất nước. Do
vậy, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực (đặc biệt
là giáo dục đại học) giữ vai trò quyết định sự
thành công của cuộc CMCN 4.0 hiện nay. Bên
cạnh những thành tích to lớn không thể phủ
nhận, đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay
cũng đang bộc lộ khá nhiều hạn chế, trong đó
trước hết là thiếu triết lý đào tạo. Triết lý đào tạo
chính là những giá trị cốt lõi được xâu chuỗi,
kết nối và đúc rút từ thực tế đào tạo, tương ứng
với các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội trong
những không gian và thời gian nhất định. Triết
lý đào tạo là những luận điểm căn cốt về đào
tạo, là sự cụ thể hóa phương châm đào tạo, là
mục tiêu chính cần phải đạt được trong quá
trình đào tạo. Triết lý đào tạo thường thể hiện
các quan điểm hành động, liên quan đến các
cơ quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý, các
cơ sở giáo dục đào tạo trong cả nước rồi từ đó
chi phối hoạt động giảng dạy, đào tạo ở các cơ
sở đào tạo. Tóm lại, triết lý đào tạo là sự định
hướng căn bản nhất mang tính hệ thống, xâu
chuỗi và kết nối tiến trình đào tạo để đạt được
mục đích đào tạo, tạo ra những giá trị cốt lõi
của cơ sở đào tạo.
Từ thực tiễn cuộc sống, bằng nhận thức của
mình, chúng tôi đưa ra khái niệm triết lý đào
tạo như sau: “Triết lý đào tạo là tư tưởng mang
tính triết học về đào tạo, phản ánh thực tiễn và
định hướng phát triển sự nghiệp đào tạo của
đất nước. Nó được hình thành thông qua sự trải
nghiệm, suy ngẫm, đúc rút, khái quát hóa những
nội dung có liên quan trong quá trình điều tiết sự
vận hành bộ máy đào tạo của các chủ thể quản
lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà khoa
học cũng như dư luận xã hội; để rồi trở lại định
hướng, điều tiết hoạt động giáo dục đào tạo
trong những không gian và thời gian nhất định”
(7, tr.15). Triết lý đào tạo bắt nguồn từ thực tiễn
cuộc sống, từ yêu cầu của cuộc sống. Nó cũng
bắt nguồn từ quá trình đào tạo gắn với nghiên
cứu khoa học - chuyển giao công nghệ và sản
xuất - kinh doanh Triết lý đào tạo được coi
là tư tưởng chủ đạo của những nguyên tắc
về đạo lý và phương pháp quản lý để dẫn dắt
hành vi của các cá nhân và tổ chức trong quá
trình đào tạo. Triết lý đào tạo thường thể hiện
qua lý do tồn tại của hoạt động đào tạo và các
quan điểm hành động, liên quan đến các cơ
quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý các cơ
sở đào tạo trong cả nước.
3. Tại sao phải thay đổi triết lý đào tạo trong
lĩnh vực đào tạo đại học?
Việt Nam là một quốc gia văn hiến, có lịch
sử phát triển rực rỡ mấy nghìn năm. Ngay từ
thế kỷ XV, sau khi đánh đuổi quân Minh, giành
lại độc lập cho đất nước, danh nhân văn hóa
thế giới Nguyễn Trãi đã khẳng định trong tác
phẩm nổi tiếng Bình Ngô đại cáo: 唯,我大越之
75Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
thành lập Trường ĐHVHHN
國,實為文献之邦 Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
thực vi văn hiến chi bang... (Như nước Đại Việt
ta, thực là một nước văn hiến...). Một trong
những nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần
làm nên văn hiến Việt Nam chính là những
thành quả rực rỡ của nền giáo dục - đào tạo
trong tiến trình lịch sử. Với truyền thống “tôn
sư trọng đạo”, trọng người hiền tài, hơn 500
năm về trước, vâng mệnh vua Lê Thánh Tông
- vị minh quân “võ công văn trị” nổi tiếng trong
lịch sử dân tộc, Thân Nhân Trung (Hàn lâm viện
Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ, Quốc tử giám Tế
tửu, Lễ bộ Thượng thư, Lại bộ Thượng thư) đã
viết trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu
- Quốc Tử Giám như sau: “Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước
mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu,
rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế, minh
vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân
tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc
đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như
thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là
cùng...” (9). Như vậy, ngay từ thời phong kiến,
việc trọng người hiền tài (trọng người tài - đức)
đã trở thành nền móng để xây dựng quốc gia
phát triển hùng cường. Cơ sở giáo dục đào tạo
cao nhất, quy mô nhất dưới thời phong kiến là
Văn miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) còn tồn tại
từ khi ra đời đến nay. Tại Văn miếu - Quốc Tử
Giám, nơi tôn vinh và thờ phụng của đạo học
Việt Nam cùng với thành tựu của các phương
cách dạy - học qua các thời kỳ lịch sử đã trở
thành hình ảnh cũng như nội hàm của nền văn
hiến Thăng Long, văn hiến Việt Nam. Đây được
coi là trường đại học đầu tiên của đất nước
để rồi sau đó, theo dòng lịch sử, hệ thống các
trường đại học ở Việt Nam đã phát triển với
quy mô ngày càng to lớn như ngày nay. Thực
tế cho thấy, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào,
muốn phát triển, đều phải chú trọng đến việc
đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Trong quá trình
đẩy nhanh CNH-HĐH ở nước ta, sự nghiệp giáo
dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học càng
có vai trò to lớn hơn bao giờ hết. Những năm
qua, cũng như nhiều quốc gia Á Đông khác,
đào tạo đại học Việt Nam có vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân
lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Đây là bậc
đào tạo có mối liên quan, xâu chuỗi và kết nối,
gắn chặt mối quan hệ giữa người được đào tạo
và người lao động, giữa “thầy và thợ”. Chính vì
nhận thức được như vậy, nhiều năm trở lại đây,
đào tạo đại học Việt Nam đã được quan tâm
đầu tư và phát triển mạnh mẽ trên tất cả các
ngành nghề, cả về số lượng và chất lượng. Dù
đã đạt được nhiều thành tích to lớn nhưng đào
tạo đại học Việt Nam vẫn còn bộc lộ khá nhiều
hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ
cũng như kỳ vọng phát triển đối với tương lai của
đất nước.
Đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ
trong tiến trình CNH-HĐH, đang biến đổi và
phát triển không ngừng trong quá trình hội
nhập, đòi hỏi rất lớn nguồn nhân lực chất lượng
cao. Do vậy, đào tạo đại học ở Việt Nam hiện
nay đang đứng trước những thay đổi to lớn và
mạnh mẽ trên nhiều bình diện của đất nước.
Điều đó cũng có nghĩa là đào tạo đại học Việt
Nam đang đứng trước những thời cơ thuận
lợi và cả những thách thức to lớn. Mặc dù triết
lý đào tạo đại học đã được bàn đến rất nhiều
trên các phương tiện truyền thông trong thời
gian vừa qua, nhưng vẫn là một vấn đề thời sự
hiện nay. Việc thiếu triết lý đào tạo là một hạn
chế lớn, gây khó khăn cho toàn bộ nền giáo
dục - đào tạo Việt Nam chứ không chỉ cho đào
tạo đại học. Với đào tạo đại học, do ảnh hưởng
của truyền thống, những năm sau khi đất nước
thống nhất, chúng ta vẫn duy trì những hình
thức tuyển sinh để chọn lọc người tài thông
qua các kỳ thi. Những người được tuyển chọn
vào học ở bậc đại học về cơ bản có chất lượng
cao hơn so với mặt bằng chung trong xã hội.
Tuy nhiên, những năm gần đây, do áp lực của
yêu cầu phát triển (đất nước cần rất nhiều nhân
lực cho các vị trí khác nhau trong xã hội); bên
cạnh đó là trình độ quản lý chưa cao, bộ máy
quản lý chưa mạnh, điều kiện và phương tiện
đào tạo thiếu thốn Cùng với nhiều nguyên
nhân sâu xa nữa đã tạo ra sự mất cân đối về
76
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số 27 - Tháng 3 - 2019
chất lượng cung - cầu trong đào tạo, khiến cho
đào tạo đại học ở Việt Nam có sự dịch chuyển
ở mức độ nhất định từ đào tạo tinh hoa, đỉnh
cao xuống đào tạo phổ cập, đại trà. Nhận thức
của nhiều người đối với đào tạo đại học cũng
đã có sự chuyển đổi theo hướng như vậy. Đây
chính là nguyên nhân khiến cho quá trình đào
tạo đại học không có định hướng đúng, không
bảo đảm được tính chuyên sâu và nâng cao;
không có bước đi thích hợp. Chất lượng đào
tạo đại học ở mặt bằng chung toàn xã hội
cũng vì thế mà có phần xuống cấp.
Nền giáo dục cách mạng Việt Nam vốn chịu
ảnh hưởng lớn của hệ thống giáo dục - đào tạo
Khổng giáo phương Đông. Đó là nền giáo dục
thiên về tập hợp kiến thức “tầm chương trích
cú”, tìm lại quá khứ, học từ quá khứ là chính.
Thầy để dạy, trò để học. Trong quá trình dạy
thì thầy chuyển giao tri thức, hiểu biết của mình
cho trò, còn đối với học trò thì thu nhận là chính;
phải “sôi kinh, nấu sử”, thuộc lòng những kiến
thức mà thầy truyền cho. Đương nhiên, qua
sự trao truyền này, tất yếu, tri thức sẽ rơi rụng,
không thể nguyên vẹn. Khi thầy truyền đạt hết
kiến thức thì cũng có nghĩa là một quá trình
giáo dục bị gián đoạn, phải chuyển sang quá
trình khác, ở nơi khác. Trật tự Nho giáo trong
nhiều trường hợp đã được thể hiện qua quan
niệm cổ hủ: Trò không được phép hơn thầy!
Điều đó đã chi phối, ảnh hưởng đến sự phát
triển của xã hội. Kết quả là, sự phát triển nhận
thức của xã hội cầm chừng, thậm chí có lúc còn
có xu hướng thụt lùi, người dạy không phát
huy được sự năng động sáng tạo của người
học. Trong khung cảnh ấy, muốn kết quả đào
tạo được tốt, người thầy luôn áp dụng phương
cách: “Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn”; “Tiên
học lễ, hậu học văn” v.v. Nền giáo dục như vậy
sẽ liên quan tới việc có thầy giỏi thì mới có trò
giỏi; thầy thế nào thì trò thế ấy; người học luôn
bị áp chế bởi “cái trần” bằng xương bằng thịt
của người thầy, khó có thể “vượt trần”, khó có
thể sáng tạo. Mặc dù gặp phải tình trạng như
vậy, nhưng lịch sử Việt Nam vẫn là lịch sử của
sự phát triển để có một Việt Nam văn hiến hôm
nay. Công bằng mà nói, sự nghiệp giáo dục -
đào tạo truyền thống đã góp một phần rất lớn
vào quá trình kiến tạo xã hội trong tiến trình
lịch sử, vào việc tài bồi nền văn hiến nước nhà.
Để có được một Việt Nam như hôm nay, công
lao của các nhà giáo dục trước đây là rất lớn.
Thực tế lịch sử cho chúng ta thấy: những
thành tựu to lớn của nền giáo dục phong kiến
Việt Nam chủ yếu nằm trong lĩnh vực khoa học
xã hội, nhân văn, chưa có thành tựu về khoa
học tự nhiên hay kỹ thuật, công nghệ. Do vậy,
việc chỉ có chuyển giao tri thức, khi đó, có thể
đáp ứng được yêu cầu xã hội; nhưng với quá
trình phát triển hiện nay, yêu cầu của giáo
dục - đào tạo đã khác trước. Truyền thống cũ
hoàn toàn không thể đáp ứng được những
đòi hỏi mới của đất nước. Cần phải có sự thay
đổi đồng bộ, toàn diện, triệt để! Cần có cuộc
cách mạng trong tư duy - ý thức hệ của những
người, những tổ chức làm giáo dục - đào tạo
trong CMCN 4.0 hiện nay!
4. Những phương châm, triết lý đào tạo đại
học ở Việt Nam hiện nay
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tích to lớn
không thể phủ nhận nhưng đối chiếu với yêu
cầu, nhiệm vụ của tiến trình hội nhập, thực
trạng đào tạo đại học Việt Nam đang đứng
trước những khó khăn, thử thách to lớn. Bản
tin ngày 19/1/2016 của Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
chỉ ra một số hạn chế đó như sau:
- Chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với
nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh
và nhu cầu của thị trường, dẫn đến tình trạng
thừa thầy, thiếu thợ...
- Chưa chú trọng đúng mức đến giáo
dục đạo đức, nhân cách, lối sống và kỹ năng,
phương pháp làm việc.
- Phương pháp đào tạo còn lạc hậu, chủ
yếu truyền thụ kiến thức một chiều; tổ chức
thi, kiểm tra, đánh giá kết quả còn thiếu thực
chất, mắc bệnh thành tích.
77Số 27 - Tháng 3 - 2019
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm
thành lập Trường ĐHVHHN
- Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục bất