Tóm tắt: Cấu trúc Trung tâm Tri thức số trong thư viện khoa Việt
Nam có thể thiết kế trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, phương
pháp luận và thực tiễn tổ chức xây dựng thư viện khoa học truyền
thống của Việt Nam và thế giới. Phát triển mô hình Trung tâm Tri
thức số cho các thư viện khoa học là một bước phát triển mới góp
phần phát triển văn hóa thư viện hiện đại nước nhà. Bài viết này
cũng phác họa bước đầu về tổ chức và xây dựng hệ thống đổi
mới sáng tạo đảm bảo xây dựng và phát triển bền vững mô hình
Trung tâm Tri thức số cho các thư viện khoa học Việt Nam.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trung tâm tri thức số - Bộ phận cấu thành của Thư viện Khoa học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH
CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
Vũ Văn Nhật1*
Tóm tắt: Cấu trúc Trung tâm Tri thức số trong thư viện khoa Việt
Nam có thể thiết kế trên cơ sở vận dụng các nguyên lý, phương
pháp luận và thực tiễn tổ chức xây dựng thư viện khoa học truyền
thống của Việt Nam và thế giới. Phát triển mô hình Trung tâm Tri
thức số cho các thư viện khoa học là một bước phát triển mới góp
phần phát triển văn hóa thư viện hiện đại nước nhà. Bài viết này
cũng phác họa bước đầu về tổ chức và xây dựng hệ thống đổi
mới sáng tạo đảm bảo xây dựng và phát triển bền vững mô hình
Trung tâm Tri thức số cho các thư viện khoa học Việt Nam.
Từ khóa: Tổ chức thư viện; Cấu trúc thư viện; Thiết chế thư viện;
Trung tâm Tri thức số; Thư viện khoa học Việt Nam; Văn hóa thư
viện; Hệ thống đổi mới sáng tạo.
1. THƯ VIỆN KHOA HỌC LÀ MỘT THIẾT CHẾ XÃ HỘI ĐẶC THÙ
Các thư viện khoa học nói chung, trong đó có các thư viện khoa học
tổng hợp và chuyên ngành đã trải qua một tiến trình lịch sử hình thành
và phát triển khá lâu dài qua nhiều thập kỷ trên thế giới và ở nước ta.
Chúng trở thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống thông tin khoa học
và công nghệ quốc gia và quốc tế. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ 4.0, các thư viện khoa học của Việt Nam và thế giới
cần phải có bước phát triển mang tính cách mạng để có thể thực hiện
được chức năng và nhiệm vụ của mình trong tình hình mới. Theo quan
∗ Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Khoa Thông tin – Thư viện, Trường Đại học Khoa học
Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
696
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
điểm của chúng tôi, cũng như nhiều nhà khoa học trên thế giới, hiện
nay hai vấn đề cụ thể: Cấu trúc mô hình Trung tâm Tri thức số của thư
viện và ứng dụng công nghệ tin học cho thư viện khoa học Việt Nam là
hai vấn đề mang tính khoa học và thực tiễn; đồng thời phù hợp với tư
tưởng chính trị và chiến lược phát triển sự nghiệp thư viện Việt Nam đã
được ghi trong Luật Thư viện Việt Nam 2019.
Luật Thư viện Việt Nam được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày
21 tháng 11 năm 2019 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2020, đã giải
thích rõ bản chất của thư viện và thư viện số trong Điều 3:
“1. Thư viện là thiết chế văn hóa, thông tin, giáo dục, khoa học
thực hiện việc xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, cung cấp tài nguyên
thông tin phục vụ nhu cầu của người sử dụng.
2. Thư viện số là thư viện hoặc bộ phận của thư viện có tài nguyên
thông tin được xử lý, lưu giữ dưới dạng số mà người sử dụng thư viện
truy cập, khai thác thông qua thiết bị điện tử và không gian mạng.”
Luật thư viện quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của thư viện tại
Điều 4:
“1. Xây dựng, xử lý, lưu giữ, bảo quản, kết nối và phát triển tài
nguyên thông tin phù hợp với người sử dụng thư viện.
2. Tổ chức sử dụng chung tài nguyên thông tin, sản phẩm thông
tin và dịch vụ thư viện; truyền bá tri thức, giá trị văn hóa của dân tộc và
nhân loại; phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, giải trí; góp phần hình
thành và phát triển kiến thức, kỹ năng, phẩm chất, năng lực của người
sử dụng thư viện.
3. Ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, hiện đại hóa thư viện.
4. Phát triển văn hóa đọc và góp phần tạo môi trường học tập suốt
đời cho Nhân dân, xây dựng xã hội học tập, nâng cao dân trí, xây dựng
con người Việt Nam toàn diện.”
Như vậy theo Luật Thư viện Việt Nam hiện hành: Thư viện thực
hiện 4 chức năng trọng tâm chủ yếu: Xây dựng, xử lý, lưu giữ, cung
cáp tài liệu và thông tin; tuyên truyền chính trị - tư tưởng; giáo dục văn
697
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
hóa, khoa học và công nghệ và tổ chức việc đọc cho mọi thành viên
trong toàn xã hội.
2. CẤU TRÚC CỦA TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
Trên nền tảng phương pháp luận khoa học và những cơ sở vật
chất - kỹ thuật hiện có của thư viện khoa học truyền thống, mô hình
Trung tâm Tri thức số - Bộ phận cấu thành của thư viện khoa học có
thể được tổ chức theo cấu trúc hai bộ phận chính:
- Bộ phận dữ liệu tài nguyên thông tin (Nguồn lực thông tin);
- Bộ phận tra cứu thông tin số hóa (Bộ máy tra cứu thông tin).
2.1. Bộ phận dữ liệu tài nguyên thông tin (Nguồn lực thông tin)
* Khái niệm: Tài nguyên thông tin của Trung tâm Tri thức số là
vốn tri thức được bao gói dưới dạng thức vật chất khác nhau (Tài liệu,
tư liệu, số liệu, thông tin) dưới dạng số hóa được thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau vào Trung tâm Tri thức số, phù hợp với chức năng
và nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu của bạn đọc và người dùng tin, nó trở
thành tài sản riêng của thư viện.
* Đặc trưng của tài nguyên thông tin:
- Đặc trưng tính vật lý (Hình thức bao gói);
- Đặc trưng tính nội dung (Lĩnh vực tri thức cụ thể);
- Đặc trưng tính tổ chức (Cơ cấu tổ chức sắp xếp theo một nguyên
tắc nhất định);
- Đặc trưng tính truy cập (Mỗi tài liệu có mã tìm kiếm và truy cập
cụ thể);
- Đặc trưng tính chia sẻ (Có thể trao đổi và chia sẻ trong hoặc
ngoài hệ thống);
• Các loại hình tài nguyên thông tin
Căn cứ váo nội dung tri thức, hình thức bao gói và đối tượng phục
vụ người dùng tin, nguồn tài nguyên thông tin được phân chia thành
các loại:
698
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
- Tài liệu nghiên cứu khoa học: Toàn tập, tuyển tập, tập riêng biệt;
Sách chuyên khảo; Tập bài báo và tiểu luận khoa học; Kỷ yếu; Chuyên
san khoa học; Tạp chí khoa học; Luận án khoa học, phục vụ cho các
nhà nghiên cứu - triển khai trong lĩnh vực khoa học.
- Tài liệu học tập: Sách giáo khoa và sách tham khảo học tập, phục
vụ cho các giảng viên và sinh viên trong các trường từ cao đẳng đến
đại học và trên đại học.
- Tài liệu kỹ thuật sản xuất: Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật sản xuất
và tài liệu thông tin kỹ thuật sản xuất, phục vụ cho các chuyên gia
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ.
- Tài liệu khoa học phổ thông: Về lý thuyết khoa học, thành tựu
khoa học, cuộc đời và sự nghiệp của các nhà khoa học và các tài liệu
hướng dẫn những người hoạt động khoa học nghiệp dư, phục vụ cho
mọi đối tượng người dùng tin trong xã hội.
- Tài liệu tra cứu: Bách khoa toàn thư tổng hợp và chuyên ngành;
các từ điển (Từ điển giải nghĩa các thuật ngữ khoa học, từ điển ngôn
ngữ, từ điển danh nhân); Sách tra cứu kỹ thuật sản xuất (các loại
sách cẩm nang); Các bản thư mục, mục lục liên hợp, các tạp chí tóm tắt
và tổng luận, tổng quan do các cơ quan thông tin - thư viện trong và
ngoài nước biên soạn và xuất bản, đáp ứng nhu cầu tra cứu của mọi
người dùng tin trong xã hội
- Các tài liệu chuyên dạng: Các tài liệu chỉ đạo về xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội (Phục vụ cho các nhà quản lý lãnh đạo); Tài liệu
sáng chế phát minh và giải pháp hữu ích (Phục vụ cho các nhà sáng
chế, phát minh khoa học ); Các bản tiêu chuẩn kỹ thuật (Phục vụ cho
các chuyên gia công nghệ và các nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ),
các bản mục lục kỹ thuật, quảng cáo các sản phẩm và dịch vụ phục vụ
cho kinh doanh dịch vụ thương mại và thị trường.
2.2. Bộ phận tra cứu thông tin số hóa (Bộ máy tra cứu tin)
Bộ phận tra cứu thông tin số hóa bao gồm các tiểu bộ phận sau:
- Bộ sưu tập các tài liệu tra cứu bảo quản các loại hình tài liệu tra
cứu của thư viện: Các tài liệu chỉ đạo của Đảng và Nhà nước; Các tài
699
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
liệu kinh điển; Các bộ bách khoa toàn thư tổng hợp và chuyên ngành;
Các bộ từ điển (Từ điển giải nghĩa các thuật ngữ, từ điển danh nhân
khoa học và từ điển ngôn ngữ); Các sản phẩm thông tin – thư mục
của các cơ quan thông tin – thư viện trong và ngoài nước biên soạn và
xuất bản,
- Các hệ thống mục lục phản ánh nội dung tài nguyên thông tin (vốn tài
liệu) của thư viện: Mục lục chữ cái, mục lục phân loại, mục lục chủ đề,
mục lục bài trích báo tạp chí, mục lục địa chí
- Bộ phiếu tổng hợp, Bộ phiếu chuyên ngành (thông tin thư mục và
thông tin dữ kiện chuyên ngành): phản ánh các tài liệu bên trong và
cả bên ngoài thư viện nhưng phù hợp với diện phục vụ của trung tâm
thông tin - thư viện và Bộ phiếu bổ trợ: Phản ánh về địa chỉ các cơ quan
và tổ chức tương ứng, về địa chỉ của các nhà khoa học hoặc các chuyên
gia nổi tiếng trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế, khoa và công nghệ,
tương ứng với diện phục vụ của thư viện.
3. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TIN HỌC TRONG XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ
CHO THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
Vào những năm nửa cuối thế kỷ XX, với sự ứng dụng các thành
tựu khoa học hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật cơ giới hóa và tự động hóa
để xây dựng và phát triển bộ máy tra cứu thư viện truyền thống thành
bộ máy tra cứu thư viện hiện đại mang tính cơ giới hóa và bán tự động
hóa mà người ta thường gọi là bộ máy tra cứu hiện đại của thư viện.
Nó bao gồm hai bộ phận: Bộ máy tra cứu truyền thống: Kho tài liệu
tra cứu; Các hệ thống mục lục; Các bộ phiếu tổng hợp, chuyên ngành
(Thư mục và dữ kiện); Bộ phiếu bổ trợ và Bộ máy tra cứu hiện đại:
Các CSDL, NHDL, CD-ROM, Mạng INTERNET, LAN, WAN, Qua
việc nghiên cứu và khảo sát thực tế chúng tôi thấy, trong hầu hết các
thư viện trên thế giới, đặc biệt là các thư viện Việt Nam đều có bộ máy
tra cứu tin với cơ cấu bao gồm hai bộ phận cơ bản: Bộ máy tra cứu tin
truyền thống và Bộ máy tra cứu tin hiện đại.
Trên cơ sở nền tảng vật chất - kỹ thuật hiện có của thư viện truyền
thống, cùng với sự ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để phát
700
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
triển nâng cấp nó thành Trung tâm Tri thức số cần phải đảm bảo các
yếu tố sau đây:
- Xây dựng bộ sưu tập số tài nguyên thông tin
Như đã nói ở phần trên, bộ sưu tập số là một tập hợp có tổ chức
nhiều tài liệu đã được số hoá dưới nhiều hình thức khác nhau (văn
bản, hình ảnh, audio, video) về một chủ đề. Mặc dù mỗi loại hình
tài liệu có sự khác nhau về cách thể hiện, nhưng nó đều cung cấp một
giao diện đồng nhất mà qua đó các tài liệu có thể truy cập, tìm kiếm
dễ dàng. Các nguồn tin số hoá tạo điều kiện cần thiết cho việc quản lý
các thư viện được tin học hoá, đảm bảo việc quản lý các nguồn số hoá
gắn liền với sự phản ánh trong các mục lục thư viện truyền thống. Có
3 cách để tạo lập bộ sưu tập số:
+ Tự tiến hành số hoá nguồn tư liệu trên giấy của Thư viện. Tức
là chuyển tài liệu hiện có sang dạng số bằng phương pháp quét hay
nhập lại thông tin từ bàn phím... đây là hướng phải đầu tư lớn, đầu tư
liên tục và tốn kém thời gian, tiền của, công sức;
+ Bổ sung/tích hợp nguồn tin điện tử thông qua việc mua, trao
đổi tài liệu điện tử đang được xuất bản (bản tin, tạp chí điện tử, các chế
bản điện tử trước khi in ra trên giấy). Chúng ta đều biết: hầu hết các ấn
phẩm hiện nay đều vừa xuất bản trên giấy vừa tồn tại dưới dạng điện
tử và nếu tận dụng được nguồn này, ta sẽ tiết kiệm được nhiều công
sức, thời gian;
+ Xây dựng các liên kết (tạo khả năng truy cập) đến các nguồn
tài liệu trên INTERNET, nhất là nguồn của các cơ quan có cùng diện
chuyên đề bao quát.
- Hạ tầng cơ sở vật chất - kỹ thuật: Mạng Intranet có tốc độ
kết nối nhanh với INTERNET; Hệ thống máy chủ lớn thực hiện việc
quản trị và các dịch vụ khác nhau (Máy chủ Web, Máy chủ FPT, Mail,
các Máy chủ lưu, bảo trì dữ liệu; Máy chủ Firewall, Máy chủ cho các
ứng dụng khác...); Hệ thống máy trạm để cập nhật, khai thác thông tin;
Các thiết bị công nghệ chuyên dụng cho TVĐT: mã vạch, quản lý và in
thẻ, máy quét, máy sao CD...
701
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
- Về phần mềm: Trên thế giới có nhiều phần mềm phục vụ cho việc
xây dựng và phát triển Trung tâm Tri thức số. Mỗi phần mềm đều có
những ưu, nhược điểm riêng nhưng thông thường một phần mềm khả
dĩ phải có các module chính của thư viện, như: Bổ sung; Biên mục;
Quản lý kho; Phục vụ bạn đọc; Mục lục trực tuyến; Phân hệ lưu hành;
Quản lý tài liệu điện tử; Truy hồi và trình bày thông tin; Mượn liên thư
viện; Quản trị hệ thống. Ngoài ra, để tổ chức Trung tâm Tri thức số ta
cũng cần có: Phần mềm hệ thống: Hệ điều hành và Hệ quản trị các
CSDL; Phần mềm xuất bản điện tử, xuất bản CD/ROM.
Trên thị trường, sản phẩm công cụ điện tử và tin học ở nước ta
đã có bán rộng rãi các thiết bị số hóa tài liệu của công nghệ KIRTAS
APT 1200, công nghệ này cùng với thiết bị BookScan APT 1200 có thể
giúp các thư viện có thể số hóa nguồn tài liệu với số lượng lớn, giá cả
hợp lý và đảm bảo chất lượng, thiết bị nhận dạng quang học OCR.
Đặc biệt là công nghệ KIRTAS APT 1200 có một phần mềm biên tập
BookScan Editor cho phép tự động biên tập, tạo siêu dữ liệu theo yêu
cầu; BookScan APT 1200 không làm hư hỏng tài liệu gốc do không phải
tháo gáy tài liệu đối với tài liệu có độ dày trang khi thực hiện Scan.
- Nhân viên thông tin - thư viện: Trong thời đại công nghệ thông
tin và để đáp ứng được những yêu cầu cao trong việc tiếp cận và khai
thác, quản lý tài liệu, trang thiết bị thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công
tác thông tin – thư viện phải có trình độ chuyên môn thư viện kết hợp
với chuyên môn công nghệ thông tin. Những nhân viên thông tin – thư
viện này vô cùng quan trọng khi chúng ta đã xây dựng hạ tầng công
nghệ thông tin và kho tài liệu số hóa, nguồn lực này sẽ vận hành và phát
triển Trung tâm Tri thức số để phù hợp với tốc độ phát triển của cuộc
cách mạng công nghệ thông tin, đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, khoa học - công nghệ và ngành thông tin - thư viện nước nhà.
Xây dựng các thư viện điện tử, thư viện số, thư viện thông minh,
hay Trung tâm Tri thức số cho thư viện là sự phát triển cần thiết khách
quan phù hợp với xu thế chung của thời đại mới. Tuy nhiên chúng ta
không được lãng quên những nguyên lý, những nguyên tắc tư tưởng
và bản chất, cũng như chức năng và nhiệm vụ đặc thù của thư viện
702
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
tiến bộ, khoa học và cách mạng; luôn cảnh giác với “Tư tưởng kỹ trị” của
các học giả và các chuyên gia thông tin – thư viện phương tây tồn tại từ
những năm giữa thế kỷ XX. Đến ngày nay nó vẫn còn tồn tại dưới các
hình thức rất tinh vi ảnh hưởng xấu đến một bộ phận không nhỏ những
chuyên gia thông tin – thư viện của nhiều nước trên thế giới.
Như vậy theo quan điểm chúng tôi, trên cơ sở vật chất – kỹ thuật
hiện có của thư viện khoa học và trên nền tảng lý luận, phương pháp
luận, kỹ thuật và các chuẩn nghiệp vụ thư viện, đặc biệt là các chuẩn
xử lý phân tích - tổng hợp tài liệu (thông tin) và chuẩn phục vụ bạn
đọc của thư viện khoa học, chúng ta có thể vận dụng công nghệ thông
tin hiện đại để chuyển nó thành một Trung tâm Tri thức số. Ngược lại,
các phương pháp công tác và công cụ công nghệ thông tin hiện đại của
Trung tâm Tri thức số sẽ góp phần quan trọng đổi mới và thúc đẩy phát
triển thư viện khoa học lên tầm cao mới thành các Trung tâm thông tin
- Thư viện điện tử – Tri thức số trong xu thế chung của thời đại, nền kinh
tế tri thức, xã hội thông tin và cuộc cách mạng công nghệ 4.0.
4. XÂY DỰNG TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN KHOA HỌC GÓP PHẦN
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA THƯ VIỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
• Khái niệm về văn hóa thư viện:
Văn hóa thư viện khoa học là tổng hòa mang tính chất chung
nhất, chỉ đạo nhất về cách nhận thức, các quan niệm, giá trị, tiêu chuẩn
đạo đức, niềm tin, triết lý hoạt động, quy phạm hành vi, ý tưởng hoạt
động; phương thức quản lý; các quy tắc quy định thái độ và cách thức
ứng xử được tập thể các thành viên chấp nhận, tuân theo và phát triển
trong thực tiễn hoạt động thư viện.
• 10 yếu tố của văn hóa thư viện:
- Một tầm nhìn rõ ràng;
- Một sứ mệnh và nhiệm vụ cụ thể;
- Kiên định hướng đến mục tiêu;
- Mạnh mẽ trong lãnh đạo;
703
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
- Tuyển những người tải giỏi;
- Tự do trong hợp tác;
- Nhân viên có quyền được chia sẻ;
- Coi trọng bạn đọc và người dùng tin;
- Mọi ý tưởng đều được xem xét và cân nhắc;
- Các thành công được ghi nhận.
• Văn hóa thư viện khoa học có thể được thể hiện qua các tính chất cơ bản
sau đây:
- Các quy định về hành vi được thể hiện bằng các ngôn ngữ, thuật
ngữ và nghi thức thông thường;
- Các tiêu chuẩn về công việc được phản ánh bằng mức độ hoàn
thành công việc hoặc mức độ hợp tác với cán bộ quản lý và nhân viên
thư viện để đạt được mục tiêu chung;
- Các giá trị chủ đạo mà các nhà lãnh đạo của thư viện ủng hộ và
mong muốn mỗi thành viên trong thư viện chia sẻ với nhau như là
đảm bảo uy tín, có tinh thần trách nhiệm, năng suất lao động cao, chất
lượng phục vụ tốt, không nghỉ việc tự do và làm việc có hiệu quả;
- Những hành vi của mỗi cá nhân trong thư viện nên hoặc không
nên đối xử với nhân viên và người dùng tin của thư viện;
- Môi trường và không khí làm việc thông qua các quy định về
hành vi làm việc của từng cá nhân, quan hệ giữa các nhân viên với
nhau, giữa nhân viên với NDT, nhân viên và cán bộ quản lý lãnh đạo.
5. HỆ THỐNG ĐỔI MỚI SÁNG TẠO ĐẢM BẢO PHÁT TRIỂN NHANH VÀ BỀN VỮNG
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN KHOA HỌC
Trong những năm gần đây, trên thế giới khái niệm “Đổi mới sáng
tạo” đã xuất hiện trong khá nhiều bài viết của nhiều nhà khoa học, đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế, khoa học công nghệ và thông tin truyền
thông xã hội. Theo chúng tôi, trong lĩnh vực thông tin - thư viện: Đổi mới
sáng tạo là một sản phẩm dịch vụ hoặc một quy trình công nghệ thông
704
PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM
tin - thư viện nào đó được làm mới, được cải tiến đưa vào phục vụ bạn đọc
và người dùng tin nhanh nhất, chính xác nhất với chất lượng cao nhất.
Với sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng khoa học công
nghệ 4.0, một số thư viện khoa học nước ta cũng đã có bước đi ban
đầu đổi mới sáng tạo trong việc ứng dụng công nghệ tin học nhằm
mục đích hiện đại hóa các quy trình công nghệ và sản phẩm dịch vụ
thư viện. Xây dựng và phát triển các thư viện điện tử, thư viện số, thư
viện thông minh, Trung tâm Tri thức số là một xu hướng mới vừa mang
tính khoa học vừa mang tính thực tiễn có giá trị cao, rất đáng khích lệ
trong lĩnh vực thông tin - thư viện nước nhà. Theo chúng tôi, vấn đề
cấp bách hiện nay, để khắc phục sự phát triển lẻ tẻ, tự phát hiện nay,
chúng ta phải tạo ra hệ thống đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực thư viện .
Mô hình hệ thống đổi mới sáng tạo trong thư viện khoa học, tùy
vào tình hình thực tế, hiện nay chúng ta cần nghiên cứu xây dựng một
mô hình đổi mới sáng tạo trong thư viện khoa học. Thí dụ: Mô hình đổi
mới sáng tạo hệ thống thư viện đại học nước ta có thể được thiết kế:
- Trung tâm Thông tin - Thư viện ĐHQGHN làm thành viên
trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo
- Các trung tâm Thông tin - Thư viện, các trung tâm học liệu, các
thư viện của các trường đại học và cao đẳng là các thành viên chính
có quan hệ trực tiếp hữu cơ với thành viên trung tâm và giữa chúng có
quan hệ ngang với nhau.
- Các trung tâm thông tin - thư viện, thông tin tư liệu của các học
viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam, của các doanh nghiệp,
tổng công ty, tập đoàn doanh nghiệp, cơ quan quản lý khoa học và
công nghệ của chính phủ là các thành viên quan trọng của hệ thống có
quan hệ ngang và quan hệ dọc với thành viên trung tâm và các thành
viên khác của hệ thống đổi mới sáng tạo
- Nhóm người dùng tin tiêu biểu là thành viên đặc thù của hệ
thống có mối quan hệ trực tiếp với thành viên trung tâm và quan hệ
ngang và dọc với tất cả các thành viên khác của hệ thống đổi mới sáng
tạo thông tin - thư viện khoa học.
705
TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA THƯ VIỆN KHOA HỌC VIỆT NAM
Tóm lại: Thư viện khoa học đã trải qua sự tồn tại và phát triển hàng
trăm năm tuổi, đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp văn
hóa - giáo dục, khoa học và công nghệ, thông tin của nhân loại. Sự ra
đời và phát triển của Trung tâm Tri thức số là “Mốc son”, là bước phát
tr