Tóm tắt
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, truyền thông không chỉ kết nối cộng đồng mà còn trở thành cầu nối
giữa Chính phủ, doanh nghiệp và người dân, giữa Trung ương với địa phương, trong nước và quốc tế.
Thông tin trên các phương tiện truyền thông đã góp phần quan trọng giúp các cơ quan nhà nước kịp
thời nắm bắt, phục vụ tích cực và hiệu quả cho công tác quản lý trên mọi lĩnh vực của đời sống. Trong
những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của công tác truyền thông đối với các lĩnh vực hoạt
động của ngành, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã giành sự quan tâm đặc biệt đến việc đẩy mạnh
truyền thông văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động truyền thông văn
hoá vẫn chưa được thực hiện một cách bài bản, chuyên nghiệp và cần phải có định hướng mang tầm
chiến lược.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 284 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Truyền thông văn hóa trong ngành văn hóa, thể thao và du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 28 - Tháng 6 - 201990
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRUYỀN THÔNG VĂN HÓA
TRONG NGÀNH VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
ĐÀO THỊ TUYẾT MAI
Tóm tắt
Trong bối cảnh xã hội hiện đại, truyền thông không chỉ kết nối cộng đồng mà còn trở thành cầu nối
giữa Chính phủ, doanh nghiệp và người dân, giữa Trung ương với địa phương, trong nước và quốc tế.
Thông tin trên các phương tiện truyền thông đã góp phần quan trọng giúp các cơ quan nhà nước kịp
thời nắm bắt, phục vụ tích cực và hiệu quả cho công tác quản lý trên mọi lĩnh vực của đời sống. Trong
những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của công tác truyền thông đối với các lĩnh vực hoạt
động của ngành, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã giành sự quan tâm đặc biệt đến việc đẩy mạnh
truyền thông văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động truyền thông văn
hoá vẫn chưa được thực hiện một cách bài bản, chuyên nghiệp và cần phải có định hướng mang tầm
chiến lược.
Từ khóa: Truyền thông, truyền thông văn hóa, chiến lược truyền thông
Abstract
In the context of modern society, the communication not only connects the community but also
becomes a bridge between the Government, businesses and people, between the Central and local,
domestic and international. Information on the media has made an important contribution to help
state agencies to grasp and serve positively and effectively for management work in all fields of life.
Over the years, recognizing the importance of communication for the sector’s activities, the Ministry
of Culture, Sports and Tourism has paid special attention to promoting cultural communication.
However, in addition to the achieved results, cultural communication activities have not been carried
out methodically, professionally and should be strategic-oriented.
Keywords: Communication, cultural communication, communication strategy
Truyền thông là sức mạnh mềm của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa,
truyền thông đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong các lĩnh vực của đời sống. Thông
tin có tính chất phản biện của các nhà quản
lý, các chuyên gia, người dân về các sự kiện
văn hóa, các chương trình hoạt động văn
hóa giúp cơ quan quản lý nắm bắt kịp thời
những vấn đề nảy sinh, điều chỉnh, đổi mới
hoặc thông tin rõ hơn để xã hội, người dân
hiểu, tạo nên sự đồng thuận ủng hộ của cộng
đồng, đồng thời phục vụ hiệu quả cho công
tác quản lý trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của đất nước.
1. Hoạt động truyền thông văn hóa trong
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
1.1. Thực trạng hoạt động truyền thông
văn hóa
Theo kết quả nghiên cứu đề tài “Giải pháp
truyền thông ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (qua khảo sát các hoạt động do Bộ tổ
chức)”1 do Văn phòng Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (VHTTDL) chủ trì thực hiện, với danh
mục 22 sự kiện được đưa ra khảo sát, so sánh
tương quan cho thấy việc nắm bắt về các sự
kiện giữa các nhà quản lý và cộng đồng đang
có mức chênh lệch đáng kể, nhất là ở các lĩnh
vực như nghệ thuật biểu diễn hay các sự kiện
Số 28 - Tháng 6 - 2019 91
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
văn hóa có tính chất nổi bật, thu hút sự chú ý
của truyền thông và dư luận.
Số liệu khảo sát thống kê đối với bảng hỏi
quản lý, đứng đầu danh sách các hoạt động lớn
trong ngành Văn hóa có tỷ lệ được biết nhiều
nhất là Liên hoan phim Việt Nam (90,8%).
Trong bảng tổng thể các hoạt động/sự kiện
được hỏi, đối với những hoạt động/sự kiện do
địa phương tổ chức, tiêu biểu nhất là Festival
hoa Đà Lạt (88%), tiếp theo đó là Festival Huế
(86,8%), Festival Biển Nha Trang (77,2%). Đây
cũng là những sự kiện đã xây dựng và phát
triển được thương hiệu, không chỉ dừng lại
ở hoạt động văn hóa, lễ hội của địa phương
mà còn thu hút nhiều du khách trong nước và
quốc tế. Theo thống kê, một số hoạt động văn
hóa có tỷ lệ nhà quản lý nắm thông tin chênh
lệch một vài lần so với người dân, như sự kiện
Nhà hát lớn mở cửa đón du khách hay Bình
chọn và công bố 10 sự kiện tiêu biểu ngành
VHTTDL, tỷ lệ nắm thông tin chênh lệch gần
gấp ba lần. Có thể lý giải nguyên nhân là do
đặc thù các sự kiện chỉ giới hạn trong khuôn
khổ những đối tượng có liên quan trực tiếp
được mời tham dự chủ yếu là người làm công
tác trong ngành VHTTDL.
Trên thực tế, nhiều sự kiện văn hóa được
công chúng biết đến, đa số cũng là những sự
kiện được nhiều nhà quản lý biết đến. Liên
hoan phim Việt Nam là sự kiện trong lĩnh vực
văn hóa được nhiều người dân biết đến nhất
(90,8% quản lý và 49,6% người dân biết đến
sự kiện này). Trong khi đó, nhiều sự kiện văn
hóa có số lượng người dân biết đến tương đối
ít như: Festival Mỹ thuật trẻ, Ngày hội văn hóa
dân tộc Mông toàn quốc
Một số sự kiện tuy quy mô diễn ra ở một địa
phương cụ thể nhưng lại không hề mờ nhạt
như Festival hoa Đà Lạt, Festival Huế, Festival
biển Nha Trang... Lý do các sự kiện này có độ
phủ sóng thông tin rộng lớn như vậy, trước
hết là do đây phần lớn là những lễ hội lớn của
năm, đã có thương hiệu và đã tạo được sức
hút lớn từ truyền thông và người dân. Ví dụ,
nhiều người dân chia sẻ về Festival Hoa Đà Lạt:
“Đó thực sự là lễ hội cho người dân và giờ rộng
hơn, cả nước và du khách quốc tế cũng đến lễ hội
này rất đông. Đi đâu tôi cũng giới thiệu cho mọi
người biết là Festival hoa Đà Lạt rất hấp dẫn”.
Như vậy, có thể thấy, một trong những kênh
truyền thông về sự kiện tổ chức tại địa phương
chính là những người dân địa phương, họ
truyền thông bằng phương thức “truyền
miệng”. Theo các chuyên gia truyền thông, đây
là điểm cần lưu ý trong việc nâng cao hiệu quả
truyền thông cho các hoạt động, sự kiện do
địa phương tổ chức nói riêng, nhìn rộng hơn,
sẽ rất lý tưởng nếu mỗi người dân Việt Nam là
một “kênh truyền thông” hữu hiệu, đóng vai
trò như một đại sứ du lịch của đất nước với xu
hướng “truyền thông nhân dân”.
Khảo sát mức độ tiếp cận thông tin về văn
bản chính sách của ngành VHTTDL đối với
hai nhóm người dân và người quản lý, số liệu
thống kê cho thấy tỷ lệ chênh lệch giữa người
dân và người quản lý trong việc nghe/nói/trao
đổi thông tin về văn bản chính sách cũng khá
cao. Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát
triển ngành VHTTDL là văn bản chính sách
được ít người dân biết đến nhất (chiếm 13,6%),
song đây lại là văn bản được biết đến nhiều
thứ 3 đối với người quản lý (chiếm 80,8%), tức
là chênh lệch giữa người dân và người quản
lý là gần 6 lần. Tuy nhiên, so sánh % với tổng
nhóm quản lý, số người biết về nội dung chính
sách này lại không cao, chủ yếu dao động ở
con số 60 - 70%. Tỷ lệ người biết cao nhất cũng
chỉ đạt 76,8% ở Nghị định số 79/2012/NĐ-CP
quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn
thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu
hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa
nhạc, sân khấu. Tỷ lệ người biết thấp nhất là
42,4% đối với Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch
phát triển ngành VHTTDL.
Đối với người dân, tỷ lệ người biết nội
dung về các văn bản chính sách càng ít hơn,
chỉ khoảng 20 - 30% người dân nghe/nói/
trao đổi thông tin về các văn bản chính sách,
Số 28 - Tháng 6 - 201992
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhưng cũng chỉ có khoảng 30 - 40% người
trong tổng số 20 - 30% người nghe/nói trao
đổi thông tin về chính sách biết đến nội dung
của văn bản đó.
Về nguồn cung cấp nội dung các văn bản,
đối với người dân, nguồn cung cấp thông tin
về nội dung chính sách chủ yếu từ các phương
tiện truyền thông đại chúng, tiếp đó là từ các
phương tiện truyền thông của Bộ. Tuy nhiên,
đối với nhóm quản lý thì nguồn cung cấp
thông tin chính về các văn bản chính sách lại
đến từ lãnh đạo đơn vị là chính. Sau đó là từ
các phương tiện truyền thông của Bộ, từ các
phương tiện truyền thông đại chúng và từ
đồng nghiệp, bạn bè.
Đánh giá về kênh thông tin và nguồn tiếp
cận thông tin, kênh truyền hình được nhiều lựa
chọn nhất với 73,8%. Tuy nhiên, so sánh tương
quan trong từng nhóm cũng có những khác
biệt nhất định. Kênh thông tin được nhóm
quản lý lựa chọn cao nhất là truyền hình với
223/250 phiếu, tương đương 89,2%, trong khi
đó kênh thông tin được người dân lựa chọn
nhiều nhất là mạng xã hội với 151/250 phiếu,
tương đương 60,4%. Như vậy, trong khi nhóm
quản lý coi truyền hình là kênh thông tin chính
thống nên lựa chọn nhiều nhất thì với người
dân, tiêu chí tiếp cận thông tin của họ là “thuận
tiện, đơn giản và có thể xem mọi lúc mọi nơi”.
Khi được hỏi về các nguồn tiếp cận thông
tin chủ yếu, kết quả thu về cho thấy, ở người
dân, phương tiện cung cấp thông tin về
VHTTDL được nhiều người dân tiếp cận nhất là
qua mạng xã hội (facebook, zalo, instagram);
đứng thứ 2 là qua các kênh truyền hình; đứng
thứ 3 là qua các báo/tạp chí. Như vậy, các
phương tiện truyền thông đại chúng có vai
trò rất lớn trong công tác truyền thông, cung
cấp các thông tin trong ngành đến với người
dân. Trong ba nguồn cung cấp thông tin
đứng đầu này, mạng xã hội tỏ ra là nơi cung
cấp thông tin tốt hơn so với hai phương tiện
truyền thông còn lại. Điều đó dự báo một xu
thế mới trong sự phát triển của mạng xã hội
có thể vượt cả kênh truyền hình trong việc cập
nhật và cung cấp các thông tin. Đây cũng sẽ
thực sự là một thách thức rất lớn với những
người làm công tác quản lý không chỉ trong
ngành VHTTDL, bởi thông tin trên mạng xã
hội là thông tin không qua kiểm duyệt, độ tin
cậy không cao. Để phân tích, tiếp nhận thông
tin được đầy đủ và chính xác, người sử dụng
mạng xã hội phải có “bộ lọc” thông minh, phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như lứa tuổi, trình
độ học vấn, hiểu biết xã hội, kinh nghiệm và
hiểu biết đối với từng lĩnh vực cụ thể, đặc điểm
vùng miền,
Khác với người dân, người làm trong ngành
VHTTDL có sự tiếp cận nguồn thông tin khác
hơn. Nếu như mạng xã hội đứng đầu trong
bảng xếp hạng nguồn cung cấp thông tin đối
với người dân, thì đối với người quản lý, mạng
xã hội giảm bậc xếp hạng xuống đứng ở vị trí
thứ 6, mặc dù, tỷ lệ được lựa chọn vẫn ở mức
khá cao (60,8%).
Truyền hình, báo, tạp chí vẫn thể hiện vai
trò tích cực và hiệu quả của mình trong việc
cung cấp thông tin về ngành VHTTDL. Truyền
hình được 89.2% người quản lý lựa chọn, trong
khi báo/tạp chí đồng hạng với cổng thông tin
điện tử/trang tin điện tử của Bộ, ở mức 77,2%.
Đối với người dân, nguồn cung cấp thông tin
từ lãnh đạo đơn vị và cổng thông tin của Bộ
giữ ở vị trí thấp, thì đối với người quản lý, hai
nguồn này lại tỏ ra có hiệu quả và được nhiều
người lựa chọn tiếp cận hơn cả.
Nguồn thông tin mà người dân tiếp cận
ít nhất là từ các hội nghị, tọa đàm, tập huấn
(13,2%), nhưng đây lại là nguồn thông tin được
người quản lý tiếp cận gần như ngang bằng
với mạng xã hội (dao động ở mức 60%). Có thể
lý giải số liệu này bởi thực tế, Bộ VHTTDL cũng
như các sở, ngành, địa phương hàng năm đều
tổ chức các chương trình hội nghị, tọa đàm,
lớp tập huấn, phổ biến chính sách và kiến thức
chuyên môn cho các nhóm đối tượng khác
nhau, tuy nhiên, về cơ bản vẫn chỉ tập trung
đối tượng là những người trực tiếp làm công
Số 28 - Tháng 6 - 2019 93
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
tác VHTTDL từ Trung ương đến cơ sở, trong khi
người dân ít có điều kiện tham gia hội nghị,
tọa đàm hay tập huấn.
1.2. Hiệu quả hoạt động của các kênh
truyền thông văn hóa
Theo một kết quả khảo sát về danh sách 11
kênh thông tin của Bộ VHTTDL, Cổng thông tin
của Bộ VHTTDL là kênh thông tin được nhiều
người biết đến nhất (93,2% người quản lý và
38,8% người dân). Các kênh thông tin được
nhiều người biết đến tiếp theo là Báo Văn hóa
(81,6% người quản lý và 28,8% người dân), Tạp
chí điện ảnh (79,2% người quản lý và 25,2%
người dân), Báo Du lịch (76,8% người quản lý
và 32,8% người dân), Tạp chí Du lịch (76,8%
người quản lý và 20,4% người dân).
Tuy nhiên, mở rộng diện khảo sát thì trong
các kênh thông tin thu hút đông đảo lượng
truy cập, theo dõi lại không có một kênh nào
thuộc Bộ VHTTDL. Đây cũng là một thực tế đặt
ra thách thức đối với những người làm công
tác truyền thông ngành VHTTDL, bởi một
trong những điều kiện vô cùng quan trọng để
đạt hiệu quả truyền thông cao là kênh thông
tin phải có vai trò, vị thế nhất định trong hệ
thống những kênh cung cấp thông tin có
lượng đọc/theo dõi lớn.
Về thực trạng các mối quan tâm đến thông
tin của ngành VHTTDL, kết quả nghiên cứu
cho biết, thông tin về các hoạt động, sự kiện
VHTTDL chiếm tỉ lệ cao nhất (88,8% người
quản lý và 54% người dân). Tiếp theo là các
thông tin liên quan đến các chủ trương, đường
lối của Đảng, Nhà nước và của Bộ về lĩnh vực
VHTTDL (85,2% người quản lý và 37,2% người
dân). Việc người dân ít quan tâm đến các thông
tin liên quan đến ngành mà chỉ quan tâm tới
các sự kiện VHTTDL cũng cho thấy nhu cầu thụ
hưởng thông tin tất yếu của mỗi người dân.
Về hiệu quả công tác truyền thông trên
các phương tiện truyền thông đại chúng,
với nhóm nhà quản lý, truyền hình vẫn được
đánh giá là phương tiện truyền thông hiệu
quả nhất, đứng thứ 2 là báo điện tử, tiếp đó là
mạng xã hội. Với người dân, họ đánh giá cao
3 phương tiện cung cấp thông tin nhanh, kịp
thời là: mạng xã hội (20%), báo điện tử (18,8%)
và truyền hình (18%). Trong đó, mạng xã hội
nhận được nhiều đánh giá nhất về “Tất cả các
thông tin được cung cấp kịp thời”. Đây cũng là
một thách thức lớn trong công tác thông tin
truyền thông hiện nay, không chỉ riêng đối với
ngành VHTTDL.
Theo một nghiên cứu của We Are Social,
trung bình 1 ngày, người Việt Nam bỏ ra 6 giờ
53 phút để duyệt Web nếu dùng PC và Tablet,
2 giờ 33 phút nếu dùng điện thoại di động và
dành 2 giờ 39 phút cho mạng xã hội2. Thực tế
này đáng báo động, vì người dân dùng nhiều
thời gian hơn cho mạng xã hội (Facebook, Zalo,
) chỉ để xem thông tin, đôi khi là “lá cải”, “tạp
nham”, do đó có thể ảnh hưởng đến năng
suất lao động, khả năng học tập, gia đình và cả
đời sống cá nhân.
Bên cạnh đó, cũng theo nghiên cứu do
Văn phòng Bộ VHTTDL thực hiện, trong các
loại hình kênh thông tin thì “Loa phường/
xã” và “Báo chí” là hai loại hình có tỉ lệ tương
đương nhau trong đánh giá về tính kịp thời.
Hai phương tiện này cũng không được người
dân đánh giá cao. Theo cả hai nhóm quản lý
và người dân, tỉ lệ đánh giá đều cho thấy báo
in là phương tiện không được đánh giá cao về
tính kịp thời trong việc cung cấp thông tin.
Những con số thống kê trên thực tế cũng cho
thấy người dân ít tiếp cận báo in hơn so với
người quản lý. Đây cũng là phản ánh phù hợp
với tình hình thực tế hiện nay, khi công nghệ
số phát triển và tác động mạnh mẽ đến mọi
mặt đời sống xã hội.
Về báo điện tử, người dân đánh giá “Tất cả
các thông tin được cung cấp kịp thời” chiếm tỷ
lệ 32%; đánh giá “Hầu hết các thông tin được
cung cấp kịp thời” chiếm 29,9%. Đối với nhóm
quản lý, tỷ lệ đánh giá tất cả các thông tin
không được cung cấp kịp thời trên báo điện tử
chỉ chiếm 6,1%.
Số 28 - Tháng 6 - 201994
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Đối với truyền hình, đây là phương tiện
truyền thông có lượng người tiếp cận cao nhất
trong 5 loại phương tiện truyền thông được
khảo sát. Truyền hình đang có một chỗ đứng
cao trong công tác truyền thông, bởi cho đến
hiện tại, đây vẫn là phương tiện truyền thông
phổ biến nhất, tiếp cận được nhiều đối tượng,
vùng miền, khu vực.
Trong khi đó, đánh giá tính kịp thời của
mạng xã hội cho thấy, đây là phương tiện cực
kỳ nhanh nhạy trong việc cung cấp thông
tin. Rõ ràng, mạng xã hội đang chiếm một vị
thế nhất định trong việc cung cấp thông tin
về VHTTDL. Ngoài những phương tiện truyền
thống, thì đây là phương tiện truyền thông
cần phải được đầu tư và sử dụng hiệu quả hơn
trong công tác truyền thông về VHTTDL trong
tương lai, nhằm làm cho các thông tin này
được cung cấp kịp thời và được nhiều người
biết đến hơn.
2. Đẩy mạnh truyền thông văn hóa trong
ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch
2.1. Những khó khăn, thách thức đối với
công tác truyền thông văn hóa
Theo số liệu thống kê, với nhóm quản lý, đa
số người được hỏi đánh giá về công tác truyền
thông của Bộ ở mức khá (chiếm tỷ lệ cao nhất
là 54,7% đối với Bộ, 58,1% đối với địa phương),
mức kém chiếm tỷ lệ thấp nhất (0,8% đối với
Bộ và 3,6% đối với địa phương). Bên cạnh
đó, phần nhiều người dân đánh giá công tác
truyền thông của ngành VHTTDL hiện nay ở
mức hiệu quả, tuy nhiên, tỷ lệ này không cao
(chỉ một nửa số phiếu đánh giá công tác tuyên
truyền ở địa phương là có hiệu quả). Bên cạnh
đó, vẫn có 24,4% đánh giá là “không hiệu quả”.
Trên thực tế, khu vực miền Trung có tỷ lệ người
đánh giá công tác tuyên truyền có hiệu quả
cao nhất. Đây cũng là nơi diễn ra các sự kiện/
hoạt động lớn, hấp dẫn, được nhiều người biết
đến trong ngành VHTTDL như: Festival Di sản
Quảng Nam, Festival hoa Đà Lạt, Festival Huế,
Festival biển Nha Trang Có thể khẳng định,
một trong những yếu tố quan trọng góp phần
thành công cho các sự kiện trên đó là công tác
truyền thông, quảng bá, trong đó có vai trò
của cộng đồng. Người dân địa phương cũng
tham gia vào tuyên truyền, giới thiệu về hoạt
động của địa phương rất tích cực. Điều đặc
biệt, về hiệu quả trong công tác truyền thông
của Bộ, nếu như miền Bắc là nơi có tỷ lệ đánh
giá “không hiệu quả” cao nhất (41,8%) thì miền
Nam lại là nơi có tỷ lệ đánh giá “rất hiệu quả”
cao nhất trong 3 miền (8,1%).
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực
tế vẫn bộc lộ nhiều khó khăn trong công tác
truyền thông của ngành VHTTDL. Hai khó
khăn lớn nhất là nhân lực và tài chính (số lượng
cán bộ chuyên trách về truyền thông còn ít và
nguồn kinh phí cấp cho truyền thông còn hạn
chế). Đơn cử, trong điện ảnh - một lĩnh vực thu
hút được nhiều sự quan tâm của người dân và
có những sự kiện với mức độ tiếp nhận thông
tin trong nhóm cao nhất, thì việc đầu tư cho
điện ảnh của Nhà nước hiện nay là vô cùng
hạn hẹp, việc quảng bá điện ảnh vô cùng khó
khăn. Trong khi đó, nhìn rộng ra trên thế giới,
Hàn Quốc là một trong top 10 nước xuất khẩu
văn hóa hàng đầu thế giới, làn sóng Hàn bắt
đầu với việc xuất khẩu các sản phẩm phim
truyền hình (như Trái tim mùa thu, Bản tình ca
mùa đông, Nàng Dae Jang Geum) ra khắp các
nước Đông Á và Đông Nam Á. Sự thành công
nhanh chóng của phim truyền hình Hàn Quốc
kéo theo sự nổi tiếng của phim nhựa, âm nhạc
đại chúng Hàn Quốc (gọi tắt là K-pop), ẩm thực
Hàn Quốc và tiếng Hàn, Đây cũng là một
trong những kinh nghiệm cần nghiên cứu, học
hỏi để vận dụng trong công tác truyền thông
ngành VHTTDL.
Khó khăn tiếp theo là cơ sở hạ tầng, trang
thiết bị còn thiếu và trình độ chuyên môn của
cán bộ làm công tác truyền thông còn hạn chế.
Đây không chỉ đơn thuần là những khó khăn
về số lượng mà còn bao gồm khó khăn về chất
lượng nguồn nhân lực.
Số 28 - Tháng 6 - 2019 95
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
2.2. Giải pháp cho vấn đề truyền thông
văn hóa
Vấn đề đặt ra là giải pháp nào để tháo gỡ
những khó khăn trên? Các nhà quản lý đưa ra
lựa chọn nhiều nhất là cần bổ sung kinh phí
cho công tác truyền thông (72,8%), đầu tư cơ
sở hạ tầng, trang thiết bị hoạt động truyền
thông (64,4%), tuyển dụng, bổ sung kinh phí
cho các hoạt động truyền thông (59,6%), tổ
chức hội nghị, tập huấn cho cán bộ làm công
tác làm truyền thông (52%).
Tại địa phương, các giải pháp chủ yếu được
lựa chọn là đẩy mạnh tuyên truyền trên các
phương tiện truyền thông đại chúng, đầu tư
cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ công tác
truyền thông và bổ sung kinh phí cho các hoạt
động truyền thông. Tại Bộ VHTTDL, 3 giải pháp
được lựa chọn nhiều nhất là nhân lực, công tác
tuyên truyền và hoàn thiện pháp luật.
Từ góc độ của công chúng, bên cạnh
những giải pháp hướng tới nguồn nhân lực
và tài chính, những giải pháp được người dân
lựa chọn chủ yếu hướng đến việc làm tăng khả
năng tiếp cận của người dân với thông tin về
các sự kiện, hoạ