Tư liệu văn hiến Việt Nam đang ở đâu

Tư liệu văn hiến (tư liệu chữ viết) 1 là một nguồn tài sản vô giá để nghiên cứu về toàn bộ đời sống xã hội của Việt Nam trong quá khứ. Một nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn không được tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu này thì sẽ bị vô hiệu hóa, cũng giống như nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên không có cơ sở vật chất để tiến hành các thí nghiệm khoa học.

pdf10 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1620 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư liệu văn hiến Việt Nam đang ở đâu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư liệu văn hiến Việt Nam đang ở đâu? Trần Trọng Dương Tư liệu văn hiến (tư liệu chữ viết)1 là một nguồn tài sản vô giá để nghiên cứu về toàn bộ đời sống xã hội của Việt Nam trong quá khứ. Một nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn không được tiếp cận và khai thác nguồn tư liệu này thì sẽ bị vô hiệu hóa, cũng giống như nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên không có cơ sở vật chất để tiến hành các thí nghiệm khoa học. Chữ Thái trên sách lá cọ. Ảnh: Nguyễn Văn Tuân Trên cơ sở ngôn ngữ văn tự ở Việt Nam, tư liệu văn hiến được phân thành tư liệu chữ Hán (ghi tiếng Hán cổ đại và tiếng Hán Trung đại), chữ Nôm (ghi tiếng Việt tiền cổ - tiếng Việt cổ và tiếng Việt trung- cận đại), chữ Phạn, chữ Thái cổ, chữ Latin cổ (chủ yếu trong các văn bản của công giáo), chữ Pháp, chữ Quốc ngữ cổ, chữ Khmer cổ, chữ Chăm cổ..., trong đó tài liệu chữ Hán cổ chiếm khối lượng lớn nhất - khoảng 80%, còn sách chữ Nôm của người Việt chiếm 15%. Các loại tư liệu văn hiến khác chiếm 5%. Tuy nhiên, những số liệu trên chỉ mang tính ước đoán, không thực sự chính xác theo thực tế, bởi lẽ cho đến nay chưa có thống kê nào khảo sát toàn bộ các tư liệu đó. Thống kê duy nhất mà chúng tôi dựa vào để đưa ra con số này là số liệu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm - kho tư liệu cổ lớn nhất hiện nay2. Xét về mặt không gian phân bố, các tư liệu văn hiến nằm khá tản mát, nhất là tư liệu văn hiến của các dân tộc thiểu số. Các tư liệu này hoặc nằm ở di tích, nằm trong dân gian, hoặc có khi đã được sưu tầm về các phòng văn hóa, các bảo tàng. Song, sự liên kết yếu ớt giữa các cơ quan khiến chúng ta không thể biết được tình hình cụ thể như thế nào. Trong kho tư liệu văn hiến ấy, có lẽ kho sách Hán Nôm có vẻ khả quan hơn cả. Theo TS Nguyễn Xuân Diện, “Viện Nghiên cứu Hán Nôm là một trong những tàng thư lớn nhất nước ta về di sản Hán Nôm, trong đó hai mảng lớn nhất là sách và thác bản văn khắc. Kho sách Hán Nôm tổng hợp ở đây có khoảng 3,2 vạn đơn vị văn bản; kho thác bản văn khắc có trên sáu vạn đơn vị thác bản. Sách Hán Nôm được phân thành khoảng 40 chủ đề: Văn học, Sử học, Quan chức, Bang giao, Địa lý, Kinh tế, Gia phả, Pháp chế, Quân sự, Tôn giáo, Phong thủy, Văn hóa giáo dục, Y dược và Văn học các dân tộc ít người.”3 Ấy là chưa kể đến số tư liệu khổng lồ mới được khai thác về trong quãng 20 năm qua, hiện đang xử lý, bảo quản, và chờ lên thư mục. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm Tư liệu Hán Nôm Việt Nam còn phân tán ở rất nhiều nơi khác như Viện Thông tin Khoa học, Viện Văn học, Viện Sử học, Khoa Văn - Khoa Sử (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội), khoa Văn học (Đại học Sư phạm), một số đơn vị ở Huế và nhiều nơi khác chưa thể biết hết được. Một số đơn vị vì không phải là cơ quan chuyên môn về văn bản học - thư tịch học - văn tự học, nên ít khi được đề cập, và đương nhiên, không được đem ra phục vụ. Các tư liệu Hán Nôm cũng nằm khá nhiều trong dân gian, trong các di tích lịch sử văn hóa. Ví dụ như các kho mộc bản (văn bản khắc gỗ) tại hơn 100 chùa tổ ở nước ta, mà một trong số đó là kho ván chùa Vĩnh Nghiêm. Đến nay, chưa có dự án quy mô nào để “càn quét” toàn bộ các tư liệu trong dân gian (từ sắc phong, gia phả, cho đến sớ điệp, ván khắc)4. Gần đây, có việc gia đình nhà văn Nguyễn Văn Xuân đã rao bán một kho tuồng cổ có 204 pho tuồng Nôm. Thế nhưng, các cơ quan hữu quan còn khá lúng túng không biết xử lý thế nào5. Ấy là chưa kể đến hàng loạt các tư liệu cổ hiện còn nằm ở nhiều nơi trên thế giới như Anh, Nhật, Pháp, Vatican, Mỹ, Hà Lan, Thái Lan, Trung Quốc, Tư liệu văn hiến không chỉ là tư liệu mà mỗi văn bản, cuốn sách còn tồn tại với tư cách là một di sản, một cổ vật, một thông điệp may mắn còn sót lại từ quá khứ. Trong khi nhiều nước trên thế giới, vấn đề tư liệu đã được giải quyết trọn vẹn từ cuối thế kỷ XIX, thì ở Việt Nam đến đầu thế kỷ XXI, tư liệu vẫn bị bỏ quên! Các nhà khoa học Việt Nam hầu hết đều cho rằng làm khoa học là làm về lý thuyết. Những việc như sưu tầm, lên cơ sở dữ liệu, vi tính hóa, thư mục hóa, xác định văn bản học, văn tự học là những việc ngoài phạm vi khoa học6. Lịch sử văn học Việt Nam mười thế kỷ đã được viết nên với nhiều diện mạo khác nhau, nhưng số tư liệu nguyên bản chưa được khai thác có lẽ vẫn còn khoảng 90%. Hay như, lịch sử Việt Nam vài nghìn năm đã được xây dựng từ một số bộ sử quan phương chính thống còn đầy rẫy những vấn đề văn bản và bản dịch7, nhưng “bốn vạn trang sử đá” thì mới được xử lý với số lượng như muối bỏ bể. Rồi nữa, lịch sử Việt Nam đâu phải chỉ có mỗi lịch sử của dân tộc Kinh, lịch sử Việt Nam phải là lịch sử của 54 dân tộc anh em. Không thể lấy lịch sử của người Kinh mà nói rằng đó là toàn bộ lịch sử Việt Nam như gần 100 năm nay chúng ta vẫn làm. Không thể lấy văn học của người Việt mà nói rằng đó là toàn bộ kho tàng văn học của Việt Nam như chúng ta đang hiểu. Nhưng dường như phần nhiều các nhà khoa học Việt Nam vẫn đang chỉ mải mê với cuộc rượt đuổi về lý thuyết! ------------------------- 1 Tư liệu cổ được chia thành hai loại, tư liệu hiện vật và tư liệu chữ viết. Tư liệu hiện vật là đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của ngành khảo cổ học, nên được gọi là tư liệu văn vật. Tư liệu chữ viết là đối tượng của ngành văn bản học, văn tự học, ngữ văn học, 2 Trần Nghĩa & Francois Gros (đồng chủ biên). 1993. Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, NXB Khoa học Xã hội. 3 Nguyễn Xuân Diện. 2013. Khai thác giá trị di sản Hán Nôm Phật giáo (bản thảo). 4 Thư viện Quốc gia hiện đang triển khai chương trình số hóa sắc phong. Nhưng kết quả chưa công bố. 5 Theo Nguyễn Xuân Diện, con số tư liệu Hán Nôm về Ca Trù hiện còn 49 văn bản và 70 văn bia [2007. Lịch sử và nghệ thuật ca trù- Khảo sát nguồn tư liệu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. NXB Thế giới, H]. Nếu so sánh với các số liệu trên, rõ ràng di sản tuồng Nôm lớn gấp ba lần. Còn theo Nguyễn Tô Lan - chuyên gia duy nhất về Tuồng Nôm hiện nay, ngoài kho của Nguyễn Văn Xuân ra thì toàn bộ các kho trên thế giới hiện còn khoảng 200 văn bản Tuồng Nôm nữa. Nếu làm một bộ tổng tập văn học Tuồng Nôm Việt Nam thì tối thiểu cũng bằng bộ “Sử Thi Tây Nguyên” gồm mấy chục tập. 6 Thực ra, nhiệm vụ này hiện đang đè nặng lên vai một cơ quan chuyên trách là Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Ngay từ khi thành lập cơ quan này được chỉ định nhiệm vụ hàng đầu là “phiên dịch”, ở khía cạnh này đây là cơ quan phiên dịch lớn nhất của Việt Nam hiện nay và phải gánh tư liệu cho nhiều ngành khác. Nhiều nhà nghiên cứu của viện đã phải bức xúc khi bị gọi là “người làm tư liệu”, “người dịch tư liệu”. 7 Ví dụ như Đại Việt sử ký toàn thư có một đoạn dịch như sau: “Tháng 5[1119], mở hội khánh thành chùa Tịnh Lự. Rồng hiện ở hàng bán nước chè ở Kinh sư.” Đọc bản dịch, chúng tôi đã phải giật mình bởi cách dịch như vậy khiến cho người đọc nghĩ rằng: thời Lý đã có bán chè vỉa hè ở Thăng Long, mà rồng hiện ở quán chè cóc đó thì quả thực là đặc sắc!