Tự sự học hậu kinh điển – Phác thảo những khuynh hướng

Tóm tắt. Trong bài báo này, chúng tôi muốn phác thảo những khuynh hướng của tự sự học hậu kinh điển. Là bước phát triển mới của tự sự học sau giai đoạn kinh điển (giai đoạn cấu trúc luận), tự sự học hậu kinh điển, mặc dù vẫn còn đang ở tình trạng chưa hoàn tất và từ chối tham vọng trở thành một lí thuyết thống nhất, đã cho thấy nó là một lĩnh vực đa nguyên, liên ngành, xuyên phương tiện. Nó vận động theo hướng chú ý đến những yếu tố ngữ cảnh, bình diện lịch sử, bình diện dụng học cũng như hồi ứng của người đọc. Với những đường nét vận động đang bắt đầu định hình này, giai đoạn hậu kinh điển đã chứng tỏ tự sự học thực ra là một lĩnh vực nhiều tiềm năng và đang có những bước phát triển năng động, không cô lập với những khuynh hướng lí thuyết đương đại.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 186 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tự sự học hậu kinh điển – Phác thảo những khuynh hướng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 10, pp. 22-29 This paper is available online at TỰ SỰ HỌC HẬU KINH ĐIỂN – PHÁC THẢO NHỮNG KHUYNH HƯỚNG Trần Ngọc Hiếu Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Trong bài báo này, chúng tôi muốn phác thảo những khuynh hướng của tự sự học hậu kinh điển. Là bước phát triển mới của tự sự học sau giai đoạn kinh điển (giai đoạn cấu trúc luận), tự sự học hậu kinh điển, mặc dù vẫn còn đang ở tình trạng chưa hoàn tất và từ chối tham vọng trở thành một lí thuyết thống nhất, đã cho thấy nó là một lĩnh vực đa nguyên, liên ngành, xuyên phương tiện. Nó vận động theo hướng chú ý đến những yếu tố ngữ cảnh, bình diện lịch sử, bình diện dụng học cũng như hồi ứng của người đọc. Với những đường nét vận động đang bắt đầu định hình này, giai đoạn hậu kinh điển đã chứng tỏ tự sự học thực ra là một lĩnh vực nhiều tiềm năng và đang có những bước phát triển năng động, không cô lập với những khuynh hướng lí thuyết đương đại. Từ khóa: Tự sự học, tự sự học hậu kinh điển, lí thuyết văn học, chủ nghĩa cấu trúc. 1. Mở đầu Tự sự học (narratology) là một lĩnh vực nghiên cứu năng động [1, 2]. Ở Việt Nam, đã có những cố gắng dẫn nhập và ứng dụng các khái niệm, công cụ, luận điểm của một số nhà tự sự học trên thế giới [1-4] vào các hiện tượng văn học cụ thể. Tuy nhiên, hầu hết những người giới thiệu và thực hành lí thuyết tự sự học mới chỉ dừng lại ở giai đoạn kinh điển (classical) vốn được xem là giai đoạn mà lĩnh vực này nằm trọn trong ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc chứ chưa thực sự quan tâm nắm bắt những động hướng mới của tự sự học ở giai đoạn hậu kinh điển-giai đoạn vượt thoát tư tưởng cấu trúc luận. Trong bài báo này, chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề liên quan đến thuật ngữ tự sự học hậu kinh điển, chỉ ra những đặc điểm phân biệt tự sự học hậu kinh điển với giai đoạn kinh điển trước đó của nó, cũng như phác thảo những hướng nghiên cứu đa dạng và sinh động của tự sự học ở giai đoạn đương thời. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tự sự học hậu kinh điển – Vấn đề thuật ngữ Thuật ngữ tự sự học hậu kinh điển (post-classical narratology) lần đầu tiên được giới thiệu trong bài báo “Scripts, Sequences, and Stories: Elements of a Postclassical Narratology” (Kịch bản, chuỗi và câu chuyện: Những thành tố của tự sự học hậu kinh điển) của David Herman, công Ngày nhận bài 15/5/2014. Ngày nhận đăng 20/09/2014. Liên lạc Trần Ngọc Hiếu , e-mail: hieutn1979@yahoo.com 22 Tự sự học hậu kinh điển – phác thảo những khuynh hướng bố trên tạp chí PMLA, Vol.112, No.5, tháng 11 năm 1997. Kể từ đó, thuật ngữ này bắt đầu được sử dụng rộng rãi, trong đó, tiền tố “hậu”, về cơ bản, không phải là sự phủ định giai đoạn kinh điển trước đó – vốn được xem là đã định hình trong truyền thống tư duy của chủ nghĩa cấu trúc - mà nên được hiểu như là sự phát triển, sự khắc phục những giới hạn của tự sự học kinh điển. David Herman trong lời tựa tuyển tập Naratologies (Các tự sự học) đã nói rõ: “...Tự sự học đã chuyển từ giai đoạn kinh điển, cấu trúc luận – mà có thể gọi là giai đoạn Saussure, tương đối tách biệt với những bước phát triển năng động của lí thuyết ngôn ngữ và văn chương đương đại. Tự sự học hậu kinh điển (không nên đồng nhất với các lí thuyết hậu cấu trúc về tự sự) bao hàm cả tự sự học kinh điển như một trong những “khoảnh khắc” (moment) của nó nhưng nó được đánh dấu bởi sự dồi dào của những phương pháp luận mới và những giả thuyết nghiên cứu mới; kết quả là ta có một loạt những quan điểm mới về các hình thức và chức năng của tự sự. Hơn nữa, ở giai đoạn hậu cấu trúc, nghiên cứu tự sự không chỉ làm nhiệm vụ phơi bày những giới hạn mà còn khai thác những khả năng của những mô hình cũ hơn, mang tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc” [2;2-3]. Ở thời điểm David Herman chủ biên tuyển tập Narratologies, giai đoạn hậu kinh điển của tự sự học không có gì giống như một sự bùng nổ lí thuyết và nhất là không mang tham vọng vươn đến một “chủ nghĩa không tưởng về phương pháp luận” như ở giai đoạn kinh điển. Nhưng theo quan sát của Herman, giai đoạn này đáng chú ý ở “sự suy tư không ngừng về phạm vi và mục đích của tự sự học, một ý thức đầy đủ hơn về những bước phát triển của lí thuyết và phê bình xung quanh nó, một thái độ ít mang tham vọng đúc kết hơn trong khi lại giàu khát vọng thám hiểm, một tinh thần sẵn sàng hơn để thừa nhận, rằng khi nghiên cứu tự sự, người ta khó lòng hay nên hi vọng mọi thứ có thể đúng ngay một lần cho mãi mãi” [2;3]. Thay vì tạo ra một tự sự học phổ quát, thống nhất, tính đa nguyên trở thành đặc trưng của tự sự học hậu kinh điển và đấy là lí do vì sao David Herman lại đặt tên cho cuốn sách mình chủ biên là Narratologies – tự sự học ở dạng số nhiều. Không phủ định nhưng chắc chắn tự sự học hậu kinh điển phải có những bước ngoặt khác so với giai đoạn kinh điển của nó. Ansgar Nunning đã lược đồ hóa những khác biệt giữa hai giai đoạn phát triển này của tự sự học như sau [4;243-244]: Tự sự học cấu trúc luận (Tự sự học kinh điển) Các tự sự học mới (Các tự sự học hậu kinhđiển) lấy văn bản làm trung tâm (text-centered) hướng đến ngữ cảnh (context-oriented) tự sự (hiểu như là ngôn ngữ - langue) là đối tượng nghiên cứu chủ yếu các tự sự (hiểu như là lời nói – parole) là đối tượng nghiên cứu chủ yếu tập trung chủ yếu vào những hệ thống đóng và những sản phẩm tĩnh tập trung vào những quá trình mở và động đặc điểm, đặc trưng của văn bản là đối tượng nghiên cứu chủ yếu sự năng động của quá trình đọc (các chiến lược đọc, các lựa chọn diễn dịch, các quy luật thiên vị [preference rules] như là đối tượng nghiên cứu chủ yếu phân tích từ dưới lên tổng hợp từ trên xuống nghiêng về những đối lập nhị nguyên (quy giản) và các hình thức phân cấp thiên về hướng diễn dịch văn hóa tổng thể và phương pháp miêu tả đậm (thick descriptions) nhấnmạnh đến lí thuyết, cách mô tả hình thức luận (formalist), và sự phân loại các kỹ thuật tự sự tập trung vào phương diện ứng dụng, lối đọc chủ đề và những đánh giá có liên đới đến ý thức hệ. lảng tránh những vấn đề luân lí và quá trình tạo nghĩa tập trung vào những vấn đề đạo đức và những thương lượng đối thoại về ý nghĩa. 23 Trần Ngọc Hiếu thiết lập một ngữ pháp tự sự và thi pháp của nghệ thuật hư cấu dùng bộ công cụ phân tích vào mục đích diễn dịch như là những mục đích chính hệ hình hình thức luận vàmô tả luận (descriptivist) hệ hình diễn dịch và đánh giá phi lịch sử và mang tính đồng đại mang tính lịch sử và định hướng lịch đại tập trung vào những đặc điểm phổ quát của tất cả các tự sự tập trung vào hình thức cụ thể và những hệ quả của các tự sự cá nhân. một lĩnh vực tương đối thống nhất một dự án liên ngành bao gồm nhiều cách tiếp cậnkhông đồng nhất Tự sự học hậu kinh điển, như thế, phải đối diện với việc khái niệm tự sự được mở ra rất rộng, bị đồng hóa với những ý niệm mà trước nay có thể được gắn nhãn như là những niềm tin, ý thức hệ, kí ức, lịch sử,... Khi đối tượng nghiên cứu của một lĩnh vực trở nên quá rộng như vậy, người ta có quyền nghi ngờ về tính chính danh của lĩnh vực ấy. Học giả Marie-Laurie Ryan đã đặt ra một câu hỏi rất xác đáng: “Chúng ta có nên xây dựng một định nghĩa đóng vai trò như một cảnh sát ngữ nghĩa, loại trừ tất cả những cách sử dụng ‘không hợp pháp’ thuật ngữ ‘tự sự’ nhưng như thế sẽ nguy hiểm đến sức mạnh lí thuyết của tự sự học; hay chúng ta nên nhượng bộ những hình thức thời thượng, tìm ra một định nghĩa có thể chấp nhận hết mọi cách diễn giải về khái niệm tự sự, nhưng đồng thời khi đó, ta sẽ làm mờ đi những đặc trưng khu biệt tự sự với những hình thức hay những sản phẩm khác của hoạt động tinh thần?” [3;345]. Với David Herman, thuật ngữ “narratology” (ở đây xin được dịch là trần thuật học nhằm tạo ra sự phân biệt), trong cuốn Narratologies, được ông sử dụng gần như tương đương với thuật ngữ “narrative studies” (nghiên cứu tự sự), với ý thức thoát ra khỏi những giới hạn truyền thống, ở giai đoạn hậu kinh điển, tự sự học có thể chấp nhận và áp dụng vào các hình thức tự sự hiểu theo nghĩa rộng. Nghiên cứu tự sự học có thể hòa nhập với lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu tân duy sử (new historicism), không cô lập mình với những mối quan tâm về bản sắc, ý thức hệ, bá quyền văn hóa... vốn đang trở thành những chủ điểm quan trọng của các lí thuyết phê phán hiện nay. Thậm chí, trong một số phạm vi, tự sự học, với các khái niệm vốn đã được thiết lập từ giai đoạn cấu trúc luận, nay được điều chỉnh, được phức tạp hóa hơn như điểm nhìn, người kể chuyện, lời gián tiếp... có thể trở thành những công cụ hiệu quả để phân tích các văn bản được hình thành trong các ngữ cảnh có sự áp đặt đặc quyền ý thức hệ như các văn bản hậu thực dân, văn bản của các nhóm thiểu số (da màu, phụ nữ, đồng tính, người khuyết tật). Những khái niệm công cụ này có thể giúp người nghiên cứu phơi bày được những cơ chế trấn áp, kiểm soát của ý thức hệ thông qua việc định hình sự tri nhận bức tranh thế giới qua văn bản tự sự hay việc chi phối sự hình thành cảm xúc khi người tiếp nhận đọc, thưởng thức, tương tác với các văn bản tự sự. 2.2. Những khuynh hướng nghiên cứu của tự sự học hậu kinh điển Vậy tự sự học hậu kinh điển với tính chất đa nguyên như là đặc trưng của mình đang có những hướng đi như thế nào? Nếu nhìn vào các bài nghiên cứu được tập hợp trong cuốn Narratologies, có thể thấy các học giả tập trung vào những nhánh sau: 1- Tiếp tục đào sâu vào những vấn đề đã được khơi lên từ giai đoạn kinh điển nhưng giờ đây được tiếp cận lại với kinh nghiệm của giai đoạn hậu kinh điển, trong đó, đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa những thông tin, hiệu ứng của văn bản tự sự với hoạt động tri nhận của người đọc, người thưởng thức; 2-Chú ý đến sự xuất hiện của những công nghệ mới, cụ thể là công nghệ máy tính và ngành Trí tuệ nhân tạo, dẫn đến những thay đổi quan trọng trong ý niệm về tự sự, từ đó, cần thiết phải có những phương pháp nghiên cứu mới; 3- Hướng đến tự sự ngoài văn học bao gồm các tự sự bằng ngôn ngữ 24 Tự sự học hậu kinh điển – phác thảo những khuynh hướng tự nhiên (natural language narratives), tự sự học trong sử học, tự sự học trong y học; 4- Quan tâm đến phương tiện tự sự, môi trường tự sự cùng những logic mới của nó (tự sự học trong điện ảnh, tự sự học nữ quyền). Ansgar Nunning tỉ mỉ hơn cung cấp một bảng chỉ dẫn về các khuynh hướng nghiên cứu mới cùng với các học giả đang đi đầu trong từng hướng nghiên cứu. Các khuynh hướng này được quy thành 8 nhóm bao gồm [4;249-251]: 2.2.1. Các cách tiếp cận theo bối cảnh (contextualist), hệ chủ đề (thematic) và ý thức hệ: Ứng dụng tự sự học vào nghiên cứu văn chương - Tự sự học bối cảnh luận (Contextualist Narratology) – Seymour Chatman. - Tự sự học và các hệ chủ đề - Ian MacKenzie. - Tự sự học so sánh (Susana Onega, Jose Angel Garcia Landa). - Tự sự học ứng dụng (Onega/Landa, Monika Fludernik). - Tự sự học Marxist (Fredric Jameson, John Bender). - Tự sự học nữ quyền (Mieke Bal, Alison Booth, Alison Case, Susan Lanser, Kathy Mezei, Robyn Warhol, Gaby Allrath, Andrea Gutenberg, Marion Gymnich). - Tự sự học đồng tính luận (Marilyn Farwell, Judith Roof, Susan Lanser). - Tự sự học dân tộc học (Laura Doyle). - Tự sự học thân thể (Daniel Punday). - Tự sự học hậu thực dân (Monika Fludernik, Marion Gymnich, Roy Sommer). - xã hội học tự sự học (Mark Currie). - Tự sự học tân duy sử (Mark Currie, Nancy Amstrong, John Bender, Susan Suleiman). - Tự sự học lịch sử văn hóa (Ansgar Nunning, Monika Fludernik, Carola Surkamp, Bruno Zerweck). - Tự sự học lịch đại/ áp dụng tự sự học để viết lại lịch sử văn học (Ansgar Nunning, Monika Fludernik, Christopher Reinfandt, Werner Wolf, Bruno Zerweck). - Áp dụng tự sự học vào văn học hậu hiện đại (Ursula Heise, Brian McHale, Ansgar Nunning, Werner Wolf, Bruno Zerweck). 2.2.2. Áp dụng và phát triển tự sự học theo hướng xuyên thể loại và xuyên phương tiện - Tự sự học và lí thuyết thể loại (Seymour Chatman, Monika Fludernik). - Tự sự học và/của kịch (Brian Richardson, Manfred Jahn, Helmut Bonheim). - Tự sự học và/của thơ (Peter Huhn, Jorg Schonert, Eva Muller-Zettelman). - Tự sự học và/của nghiên cứu phim (David Bordwell, Edward Branigan, Seymour Chatman, Eckart Voights-Virchow). - Tự sự học và/của âm nhạc hóa hư cấu (Werner Wolf). - Tự sự học và/của nghệ thuật thị giác (Mieke Bal, Franziska Mosthaf,Werner Wolf). 2.2.3. Tự sự học dụng học và các loại tự sự học tu từ - Tự sự học dụng học (Mary Louise Pratt, Susan Lanser, Michael Kearns, Roger D.Sell, Sven Strasen). - Tự sự học luân lí và tu từ (Wayne C. Booth, James Phelan, Peter Rabinowitz). 25 Trần Ngọc Hiếu 2.2.4. Các loại tự sự học/siêu tự sự học (meta-narratology) tri nhận và gắn với lí thuyết tiếp nhận ( reception-theory-oriented) - Tự sự học phê bình (critical naratology) (Ann Fehn, Ingeborg Hoesterey, Mara Tatar). - Các lí thuyết tự sự học phân tâm học (Peter Brooks, Ross Chambers, Marianne Hirsch). - Các lí thuyết tự sự gắn với lí thuyết thiếp nhận (Wolfgang Iser, Werner Wolf). - Tự sự học kiến tạo luận (constructivist narratology) (Ansgar Nunning, Monika Fludernik, Manfred Jahn). - Tự sự học tri nhận (Jonathan Culler, Monika Fludernik, Herbert Grabes, Manfred Jahn, Menakhem Perry, Meir Steinberg, Ralf Schneider, Bruno Zerweck). - Tự sự học tự nhiên (‘natural’ narratology) (Monika Fludernik). 2.2.5. Tự sự học hậu hiện đại và tự sự học hậu cấu trúc/giải cấu trúc - Tự sự học hậu hiện đại (Andrew Gibson, Mark Currie, Patrick O’Neill). - Tự sự học hậu cấu trúc (Marcel Cornis-Pope, Christine Brooke-Rose, J.Hillis Miller, Andrew Gibson, Eyal Amiran). - Tự sự học động (Dynamic narratology) (Eyal Amiran). 2.2.6. Các cách tiếp cận ngôn ngữ học/Những đóng góp cho tự sự học - Ngôn ngữ học, phong cách học và tự sự học (Richard Aczel, Monika Fludernik, David Herman, Reingard Nischik, Wolfgang Muller, Mary Louise Pratt, Michael Toolan). - Xã hội học ngôn ngữ, phân tích diễn ngôn và tự sự học (William Labov, Joshua Waletzky, Uta Quasthoff, David Herman). - Lí thuyết hành động lời nói và tự sự học (Mary Louise Pratt, Michael Kearns, Roger D. Sell). 2.2.7. Các thuyết triết học về tự sự - Lí thuyết về các thế giới khả hữu (Lubomir Dolozel, Thomas Pavel, Gregory Currie, Uri Margolin, Ruth Ronen, Marie-Laure Ryan, Andrea Gutenberg, Carola Surkamp). - Tự sự học và lí thuyết về tính hư cấu (fictionality) (Dorrit Cohn, Lubomir Dolozel, Gerard Genette, Felix Martinez-Bonati). - Lí thuyết hiện tượng học về tự sự (Wolfgang Iser, Paul Ricoeur). 2.2.8. Các lí thuyết liên ngành về tự sự - Trí tuệ nhân tạo và lí thuyết tự sự (Marie Laure-Ryan, David Herman, Manfred Jahn). - Nhân học và lí thuyết tự sự (Victor Turner, Clifford Geertz, James Clifford). - Tâm lí học tri nhận, khoa học tri nhận và lí thuyết tự sự (Jerome Bruner, Peter Dixon/Marisa Bortolussi, David Herman, Manfred Jahn, Jurgen Straub). - Lịch sử truyền miệng và lí thuyết tự sự (Mary Chamberlain, Paul Thompson). - Các lí thuyết về sử học và lí thuyết tự sự (Arthur Danto, Lionel Grossman, Dominick LaCapra, Paul Ricoeur, Hayden White). - Lí thuyết hệ thống và lí thuyết tự sự (Itama-Even- Zohar, Christopher Reinfandt). Bảng phân loại của Ansgar Nunning là một trực quan tốt để thấy tính chất bộn bề, chưa hoàn 26 Tự sự học hậu kinh điển – phác thảo những khuynh hướng tất của tự sự học hậu kinh điển khi như tác giả thừa nhận, tên gọi các khuynh hướng, các nhánh nhỏ trong tám khuynh hướng chính còn chưa ổn định, khi có sự chồng chéo giữa các khuynh hướng, các nhánh nghiên cứu. Tuy nhiên, theo hai học giả Jan Alber và Monika Fludernik, mô tả của Nunning đã làm nổi bật được ba đặc trưng của tự sự học ở giai đoạn hậu kinh điển: đa bội (multiplicities), liên ngành (interdisciplinaries), xuyên phương tiện (transmediality). Nó vận động theo hướng chú ý đến những ngữ cảnh lớn, bình diện lịch sử, dụng học của tự sự cũng như mối quan hệ với độc giả. Các phương diện tu từ học tự sự, đạo đức tự sự cũng được quan tâm đào sâu. Xu hướng vận động của tự sự học hậu kinh điển, qua những phác thảo của Nunning, không tách rời với sự phát triển của những lí thuyết nổi lên từ những năm 1970 như thuyết hồi ứng của người đọc, nữ quyền luận, đồng tính luận, hậu thực dân luận và khúc ngoặt luân lí [1;11]. Song đối với hai học giả này, những gì mà Nunning phác ra ở trên cho thấy tự sự học hậu kinh điển đã đi hết giai đoạn thứ nhất của mình, giai đoạn mà dường như tự sự học vận động thay đổi để thích ứng với những chuyển động của tư duy lí thuyết từ bên ngoài. Khi chủ biên tuyển tập Postclassical Narratology – Approaches and Analysis (Tự sự học hậu kinh điển – Những cách tiếp cận và phân tích) xuất bản năm 2010, Alber và Fludernik cho rằng tự sự học hậu kinh điển đã bước sang giai đoạn thứ hai. Ở giai đoạn này, họ đề nghị chú ý nhiều hơn đến những bước phát triển nảy sinh từ bên trong lĩnh vực này hơn là được kích thích từ động hướng lí thuyết bên ngoài. Điều này có ý nghĩa như một phản ứng trước việc áp những mô hình lí thuyết rộng vào tự sự học, do đó, nảy sinh những độ vênh, những sự thiếu nhất quán, thậm chí mâu thuẫn. Động thái này được Alber và Fludernik gọi là “củng cố” (consolidation). Nhưng giai đoạn thứ hai này, không vì thế, lại thu hẹp tự sự học, đưa nó trở về một lĩnh vực biệt lập mà vẫn tiếp tục quá trình đa dạng hóa (diversification), đảm bảo tính chất đa bội của chuyên ngành. Vậy đâu là những hướng mà các nhà tự sự học ở chặng thứ hai của giai đoạn hậu kinh điển quan tâm? Chúng tôi xin lược thuật lại những luận điểm trong bài giới thiệu tuyển tập Postclassical Narratology mà Alber và Fludernik chủ biên: - Tự sự học tri nhận: Hướng nghiên cứu này được xem là đã khắc phục thiếu sót của tự sự học cấu trúc luận vốn không quan tâm nhiều đến bình diện quy chiếu hay bình diện thế giới truyện kể của tự sự. Tự sự học tri nhận xuất phát từ nhận định nền tảng: khi đọc một câu chuyện, độc giả bao giờ cũng liên tưởng đến một thế giới hư cấu (thế giới truyện kể) trên cơ sở tri thức về thế giới thực (real-world knowledge) của họ, do đó, nhiệm vụ của tự sự học tri nhận là mô tả những quá trình tri nhận liên đới. Những học giả nổi bật của hướng nghiên cứu này như Michael Palmer, Lisa Zunshine lập luận rằng cách chúng ta cố gắng để hiểu, để tạo nghĩa cho các tự sự hư cấu cũng giống như cách chúng ta cố gắng để hiểu ý nghĩ của các nhân vật, của người kể chuyện, tức những động cơ, chủ định của họ. Các cách tiếp cận tri nhận lại dựa trên thuyết kiến tạo (constructivist) về sự đọc, theo đó, những gì ta đem vào văn bản trong khi đọc không nhất thiết là những dữ kiện có sẵn từ trước. Điều này gắn bó mật thiết với những quan niệm phi bản chất luận, đa nguyên luận và dụng học về tự sự, do đó có mối liên hệ chặt chẽ với những bước phát triển trong định hướng nghiên cứu của ngôn ngữ học, từ bình diện cú pháp sang bình diện dụng học và tri nhận. Tự sự học tri nhận có thể làm thay đổi cách hiểu, cách vận dụng cái khái niệm về tự sự, các công cụ để phân tích các văn bản tự sự: thay vì hiểu các thuật ngữ đó như những gì tĩnh tại, cố định, phổ quát, chúng sẽ được xem xét như là những khái niệm linh động, có độ co giãn, được xác định theo ngữ cảnh, được cấu thành bởi người tiếp nhận. - Lí thuyết về các thế giới khả hữu (possible-worlds theory): Luận điểm nền móng của lí thuyết về các thế giới khả hữu là: thực tại (reality) là một vũ trụ được tạo thành bởi nhiều thành tố riêng biệt khác nhau. Thế giới thực là thành tố trung tâm, vây quanh nó là nhiều thế giới khả 27 Trần Ngọc Hiếu hữu khác nhau như những giấc mơ, những huyễn tưởng, ảo giác và những thế giới của hư cấu văn chương. Để một thế giới có thể trở thành khả hữu, nó cần phải được nối với thành tố trung tâm thông qua “những mối liên hệ có thể tiệm cận được” (inacessible relations). Những học giả tiêu biểu của khuynh hướng này là Lubomir Dolozel, Ruth Ronen và đặc biệt là Marie-Laurie Ryan. Bà đã tập trung nghiên cứu tự sự học truyền thông. Sự phát triển của công nghệ máy tính, của internet và các hình thức truyện kể mới sinh thành trong môi trường phương tiện