Tóm tắt
Kế thừa các giá trị đạo đức, luân lý truyền thống của dân tộc, Phan Châu Trinh (1872 - 1926) - một
trong số những người đứng đầu phong trào Duy tân, luôn nhấn mạnh vấn đề đạo đức, luân lý, bên
cạnh các vấn đề về giáo dục, kinh tế, chính trị,. Trong vấn đề đạo đức luân lý, Phan Châu Trinh đã thể
hiện được tinh thần biện chứng sâu sắc, khi có xu hướng kết hợp các chuẩn mực đạo đức, luân lý giữa
Đông và Tây, giữa truyền thống với hiện đại vào từng cá nhân, tập thể, hay với ngoại diên rộng lớn hơn
đó là quốc gia, dân tộc. Bài viết tìm hiểu tư tưởng của Phan Châu Trinh về “Đạo đức và luân lý Đông
Tây” - giá trị nhân văn nổi bật trong tư tưởng của ông, giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng “Đạo đức và luân lý Đông Tây” của Phan Châu Trinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59Số 24 - Tháng 6 - 2018
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI
1. Bối cảnh trong nước và khu vực cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Theo dòng lịch sử, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn có nhiều biến động trong và ngoài
nước.
Trong nước, đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn
được thiết lập và duy trì chế độ phong kiến
quan liêu chuyên chế cực đoan. Để duy trì chế
độ đó, triều đình nhà Nguyễn vừa ra sức bóc
lột nặng nề, vừa đàn áp khốc liệt các cuộc đấu
tranh của nhân dân, khiến dân tình điêu linh,
nhân tâm ly tán, oán giận; mặt khác lại bảo
thủ, đóng cửa với thế giới bên ngoài, không
tiến hành cải cách để đưa nước ta thoát khỏi
cuộc khủng hoảng. Trong lúc đó, các nước tư
bản phương Tây tiến dần lên, trở thành những
nước đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết chạy
đua tìm kiếm thị trường ở các nước phương
Đông. Những vùng đất chưa bị thôn tính,
trong đó có Việt Nam đều bị đe dọa nghiêm
trọng. Việt Nam trở thành đối tượng xâm lược
của thực dân Pháp. Hậu quả là tiềm lực đất
nước ngày càng suy yếu, kiệt quệ, mối nguy
cơ đe dọa từ bên ngoài càng gia tăng, tạo
điều kiện cho thực dân Pháp xâm lược nước
TƯ TƯỞNG “ĐẠO ĐỨC VÀ LUÂN LÝ ĐÔNG TÂY”
CỦA PHAN CHÂU TRINH
TRẦN MAI ƯỚC
TRƯƠNG THỊ CẨM XUYÊN
Tóm tắt
Kế thừa các giá trị đạo đức, luân lý truyền thống của dân tộc, Phan Châu Trinh (1872 - 1926) - một
trong số những người đứng đầu phong trào Duy tân, luôn nhấn mạnh vấn đề đạo đức, luân lý, bên
cạnh các vấn đề về giáo dục, kinh tế, chính trị,... Trong vấn đề đạo đức luân lý, Phan Châu Trinh đã thể
hiện được tinh thần biện chứng sâu sắc, khi có xu hướng kết hợp các chuẩn mực đạo đức, luân lý giữa
Đông và Tây, giữa truyền thống với hiện đại vào từng cá nhân, tập thể, hay với ngoại diên rộng lớn hơn
đó là quốc gia, dân tộc. Bài viết tìm hiểu tư tưởng của Phan Châu Trinh về “Đạo đức và luân lý Đông
Tây” - giá trị nhân văn nổi bật trong tư tưởng của ông, giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Từ khóa: Phan Châu Trinh, đạo đức và luân lý Đông Tây
Abstract
Succeeding the value of moral and ethical tradition of Vietnamese nation, Phan Chau Trinh (1872
- 1926) - one of the leaders of “Duy Tan” (National Reform) movement, besides education, economy,
politics issues Phan Chau Trinh also emphasized moral and ethical issues. In term of “moral and
ethical” issues, he manifested a profound dialectical spirit by combining Eastern and Western virtue,
tradition and modern into each individual, community or even extending into each country and nation.
The article studies about “Eastern-Western moral and ethics” issues in Phan Chau Trinh’s perspective -
a prominent humanity value in his thought during the end of 19th century and the beginning of 20th
century.
Keywords: Phan Chau Trinh; Eastern-Western moral and ethics
Số 24 - Tháng 6 - 201860
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
ta vào nửa sau thế kỷ XIX. Sau khi hoàn thành
chiến tranh xâm lược và bình định, thực dân
Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa và dần dần
làm chuyển hóa xã hội nước ta, từ một xã hội
phong kiến thành xã hội thuộc địa nửa phong
kiến.
Ngoài nước, theo sự phân kỳ chung của
lịch sử thế giới, hình thái kinh tế - xã hội chủ
yếu của thời kỳ này là sự ra đời, phát triển của
chủ nghĩa tư bản và bước đầu chuyển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Hiện tượng đó đã diễn ra một cách
phổ biến ở nhiều nước châu Âu, Bắc Mỹ và
Nhật Bản. Nhưng do quy luật phát triển không
đồng đều của lịch sử mà trong thời kỳ này,
phương thức sản xuất tiền tư bản chủ nghĩa,
chủ yếu là chế độ phong kiến còn chiếm địa
vị thống trị ở nhiều nước châu Á, châu Phi và
châu Mỹ - Latinh. Dưới tác động của chủ nghĩa
thực dân phương Tây, hầu hết các khu vực nói
trên đều bị lôi cuốn một cách cưỡng ép vào
quỹ đạo chung của chủ nghĩa tư bản, mang
theo nhiều sắc thái riêng biệt. Nền dân chủ tư
sản cũng như phong trào cách mạng vô sản ở
các nước tư bản trên thế giới đã ảnh hưởng rất
lớn đến các nước phong kiến trong đó có Việt
Nam. Các cuộc canh tân đất nước ở Nhật Bản,
Trung Quốc, là bài học vô cùng quý giá đối
với nước ta trước yêu cầu bức thiết của lịch sử.
Như vậy, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX là một trong những giai đoạn có nhiều
biến động đối với lịch sử xã hội Việt Nam. Đó là
thời kỳ chế độ phong kiến triều Nguyễn đã suy
tàn, thỏa hiệp và làm tay sai cho thực dân Pháp.
Đây là giai đoạn đánh dấu bước chuyển Việt
Nam từ xã hội phong kiến thành xã hội phong
kiến nửa thuộc địa, tính chất xã hội hoàn toàn
thay đổi. Trong điều kiện lịch sử - xã hội đó, ở
Việt Nam đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng với
những khuynh hướng, phương pháp canh tân
đất nước khác nhau. Tính chất, khuynh hướng,
phương pháp của các tư tưởng canh tân,
cải cách trong thời kỳ này, tuy có khác nhau
nhưng có chung một mục đích là cứu dân, cứu
nước, phát triển đất nước. Một trong những tư
tưởng sâu sắc, nổi bật trong giai đoạn lịch sử
này đó là tư tưởng về Đạo đức và luân lý Đông
Tây của Phan Châu Trinh, một chí sĩ yêu nước.
Tư tưởng và sự nghiệp của Phan Châu Trinh đã
để lại dấu ấn đậm nét trong phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng
dân chủ tư sản ở nước ta giai đoạn đầu thế kỷ
XX.
2. “Đạo đức và luân lý Đông Tây” - Giá trị
nhân văn nổi bật trong tư tưởng của Phan
Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) tự là Tử
Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã. Ông sinh
tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, phủ Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam (nay là thôn 5, xã Tam Phước,
thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam), là con thứ ba
trong gia đình có truyền thống yêu nước. Sự
nghiệp của ông có thể khái quát thành hai giai
đoạn khác nhau: giai đoạn từ năm 1911 trở
về trước và giai đoạn từ năm 1911 đến những
năm cuối đời. Trong đó, mỗi giai đoạn là một
điểm nhấn trong cuộc đời của ông.
Điểm nhấn đầu tiên: bước chuyển “quá độ”
trong nhận thức. Khi còn làm quan, Phan Châu
Trinh cốt chủ ý phục vụ tài năng cho đất nước,
không ham lối sống “vinh thân phì gia”, “thực
dụng”. Trải qua một thời gian, việc làm quan
đối với ông chỉ là việc chẳng đặng đừng, nhất
là sau khi đọc được Tân thư ông mới thấy sở
trường và sở đoản của mình và cũng từ đó
ông thật sự dấn thân vào cuộc đời hoạt động
cách mạng, công khai chống bọn quan lại tay
sai Nam triều và chính quyền thực dân.
Điểm nhấn thứ hai: bước chuyển “quá độ”
trong tư tưởng, từ nhà cách mạng thiên hướng
dựa trên lập trường tư tưởng phong kiến
chuyển sang tư tưởng dân chủ, đặc biệt là từ
cách mạng dân chủ tư sản “phác họa” về xu
hướng tiến bộ và triệt để hơn - cách mạng vô
sản. Tuy nhiên, dưới sự đào tạo vốn có của nền
Nho học, cũng như do hạn chế về lịch sử và
điều kiện giai cấp quy định, Phan Châu Trinh
vẫn giữ lại nhiều quan điểm của nền học vấn
61Số 24 - Tháng 6 - 2018
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI
Khổng Mạnh làm cơ sở cho tư tưởng cải cách
của mình, nổi bật là tư tưởng về “Đạo đức và
luân lý Đông Tây”.
Tư tưởng “Đạo đức và luân lý Đông Tây”
của Phan Châu Trinh được thể hiện một cách
rõ nét, sâu sắc thông qua các bài báo, thơ ca
quốc âm, thư từ, phú, chính luận chữ Hán,
Trong đó có các tác phẩm tiêu biểu như: Hiện
trạng vấn đề; Gia huấn ca; Tỉnh quốc hồn ca I, II;
Đạo đức và luân lý Đông Tây;
Thông qua tư tưởng này, Phan Châu Trinh
không chỉ thể hiện sự trăn trở, tìm tòi một
phương án trả lời cho hoàn cảnh lịch sử xã hội
đầy biến động của Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, mà tư tưởng về đạo đức,
luân lý của ông còn là sự kết hợp đặc sắc giữa
truyền thống văn hóa Việt Nam với tư tưởng
phương Đông, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo
Khổng Mạnh, được dẫn dắt trên cơ sở của tư
tưởng dân chủ tư sản phương Tây, cốt lõi là
những quan điểm dân chủ, tự do, bình đẳng,
bác ái, thể hiện trong Tân thư khi được
truyền bá vào Việt Nam.
2.1. Đạo đức, luân lý - Một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự tự trị của
quốc gia, dân tộc
Dưới sự cai trị của chế độ quân chủ chuyên
chế, Việt Nam ngày càng trở nên suy yếu. Đại
bộ phận quan thần, kẻ có chức người có quyền
đua chen nhau sống như những “kẻ sĩ”, thậm
chí trong “nội bộ” còn xảy ra tranh giành, sát
hại lẫn nhau. Hơn thế nữa, chúng ra sức bóc
lột, vơ vét sức người sức của trong đại thể
quần chúng nhân dân. Phan Châu Trinh đã
viết: “Khôn ngoan đối đáp người ngoài, người
trong một nước thì coi như nhà” (2, tr.176), vậy
mà con người lại muốn đi ngược lại với những
quy luật được xem như thể tự nhiên nhất,
thiêng liêng nhất, họ chỉ biết nghĩ đến lợi ích
của cá nhân mình thay vì phải nghĩ cho mọi
người, cho quần chúng nhân dân. Theo Phan
Châu Trinh, nguyên nhân sâu xa của sự việc
trên chính là mỗi cá nhân, mỗi giai cấp, mỗi
tầng lớp đã đánh mất cái gốc đạo đức, luân lý
vốn có ban đầu. Mất đạo đức, luân lý dẫn đến
mất đoàn kết, mất phương hướng xác định
đâu là đúng và đâu là sai. Mất đạo đức, luân lý
sẽ ảnh hưởng và chi phối đến nhiều lĩnh vực
khác nhau, cả về chính trị, giáo dục, kinh tế,
truyền thống văn hóa,
Trước thực trạng nền đạo đức, luân lý như
vậy, thực dân Pháp càng dễ dàng trong quá
trình xâm lược và đô hộ nước ta hơn. Sống
dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, nhân
dân ta bị đàn áp và bóc lột thậm tệ. Những
cảnh nghèo đói, cảnh người thân phải lìa xa
gia đình, cảnh sinh ly giữa đôi vợ chồng để
phục vụ quyền lợi của thực dân và quan lại tay
sai, làm xâu, đóng thuế đến nỗi phải “bán vợ
đợ con”. Hay những mưu mô độc ác của thực
dân Pháp trên đất nước ta nhằm vơ vét mọi
nguồn lợi phong phú. Chúng cướp đến cả bữa
cơm hằng ngày của dân ta, nhà nông có lúa mà
không có quyền chứa đề phòng cho mùa sau,
phòng lúc đói kém. Lớp công nhân bỏ mình
nơi hầm mỏ, đồn điền không ít, Phan Châu
Trinh đã tỏ ra đau đớn khi ông nhìn đất nước
chìm đắm trong chính sách sai lầm, mù quáng
của triều đình nhà Nguyễn và chính sách “ngu
dân” của thực dân Pháp, làm cho nhân dân ta
phải sống trong cơ cực bần cùng. Ông viết:
“Than ôi! Tổ tiên ta sáng suốt, mẫn tiệp, có một
nhãn quan sắc bén, đáng kính, đáng yêu, đáng
ca, đáng hát để sùng bái người xưa. Thế mà đời
sau lại biến thành giá áo túi cơm, văn chương
tám vế mộng mơ mà cho là công cán, thật là
đáng buồn thay! Và từ khi Pháp giao thiệp với
Việt Nam đến ngày bị bảo hộ nay đã trên dưới
sáu mươi năm mà trong toàn quốc học giới bị
trụy lạc tột bực và quốc dân cũng bị độc nhiễm
tột độ ()” (4, tr.32-33).
Chính vì vậy, Phan Châu Trinh đã đề cao tác
dụng của đạo đức, luân lý và ông khẳng định
rằng phải tìm nguyên nhân mất nước trong
sự mất đạo đức, mất luân lý. Nước ta mất hay
còn, thịnh hay suy là do đạo đức, luân lý, vì vậy
muốn phục hưng đất nước phải phục hưng
đạo đức, luân lý ấy: “Ta đã biết nước ta mất cũng
Số 24 - Tháng 6 - 201862
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
vì luân lý, dân ta hèn cũng vì mất đạo đức luân
lý, bị người khinh bỉ dày xéo cũng vì mất đạo đức
luân lý thì ta phải cố sức sửa đổi luân lý, bồi đắp
đạo đức của ta” (2, tr.956). Qua đó có thể nhận
định, đây là một vấn đề cốt lõi của mỗi quốc
gia, dân tộc; việc chú trọng giữ gìn, phát huy,
tiếp thu các giá trị, chuẩn mực đạo đức, luân
lý là điều hết sức cần thiết trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội Việt Nam nói
riêng và quốc tế nói chung, nhằm giữ vững
khả năng tự trị trong xu thế toàn cầu hóa như
hiện nay.
2.2. Đạo đức, luân lý - Hai mặt của một
vấn đề
Thông thường, chúng ta quan niệm đạo
đức và luân lý có cùng một nghĩa, ít ai chịu tách
bạch hay phân minh từng nghĩa nên nhiều khi
hiểu lầm. Trên thực tế thì không phải vậy, theo
Phan Châu Trinh giữa đạo đức và luân lý hoàn
toàn không đồng nhất với nhau, chúng là hai
mặt của một vấn đề và có sự khác biệt một
cách rõ ràng.
Khi xét về nội hàm, đạo đức bao gồm cả
luân lý, còn luân lý chỉ là một phần trong đạo
đức mà thôi.
Khi xét về mức độ ổn định, đạo đức không
bao giờ thay đổi ví “như cơm, như nước, như đồ
bổ dưỡng, cần cho mọi người, dầu muốn thay đổi
cũng không thay đổi được; thay đổi được thì là
đạo đức giả” (2, tr.931). Dù nhà bác học xướng
ra học thuyết nào nữa, dù cho các chính thể
khác nhau: dân chủ hoặc quân chủ, hoặc cộng
sản nữa, cũng không thể nào vượt ra khỏi chân
lý của đạo đức. Luân lý thì không như vậy, bởi
nó có thể thay đổi tùy theo mỗi thời đại, mỗi
quốc gia, dân tộc, “như cái áo tùy người lớn nhỏ
mà thay đổi, nhưng cũng không mất hình cái áo
đi” (2, tr.931).
Như vậy, tùy theo mỗi thời đại, mỗi quốc
gia, luân lý có thể thường xuyên thay đổi cho
phù hợp với văn hóa, cũng như quyền lợi của
giai cấp cầm quyền. Còn đạo đức theo Phan
Châu Trinh là những chuẩn mực ứng xử tốt
đẹp được hình thành, phát triển và hoàn thiện
trong lịch sử - xã hội, mà con người bắt buộc
phải thực hiện trong suốt cuộc đời làm người,
nhằm khẳng định vai trò, vị trí, giá trị của mình
trong thế giới tự nhiên, trong xã hội cũng như
giải quyết yêu cầu của đất nước đặt ra.
2.3. Đạo đức, luân lý - Sự kết hợp hài hòa
giữa Đông và Tây
Sau khi làm rõ được sự khác nhau giữa đạo
đức và luân lý, xác định đây là một trong những
nguyên nhân ảnh hưởng đến sự tự trị của mỗi
quốc gia, dân tộc, Phan Châu Trinh đã suy nghĩ
và xây dựng nên tư tưởng về “Đạo đức và luân
lý Đông Tây”. Tư tưởng này dựa trên cơ sở của
truyền thống văn hóa dân tộc, đặc biệt là luân
lý yêu nước, kế thừa những chuẩn mực đạo
đức của Khổng Mạnh và kết hợp với luân lý
dân chủ của phương Tây hiện đại để xây dựng
những chuẩn mực đạo đức mới. Bởi theo ông,
đạo đức, luân lý dù ở phương Đông, phương
Tây hay ở Việt Nam, trong quá trình hình thành
và phát triển cho đến nay, do việc vận dụng
các chuẩn mực đó của giai cấp cầm quyền
nhằm phù hợp với quyền lợi của giai cấp mình,
nên dẫn đến việc xa rời những nội dung tốt
đẹp ban đầu.
Ông cho rằng, bao nghìn năm nay nước ta
đã làm mất đi cái đạo Khổng Mạnh nên suy vi,
còn châu Âu thì lại thực hiện đúng như đạo
Khổng Mạnh nên cường thịnh! Với ông, cái văn
minh Âu châu bây giờ không có gì là trái ngược
với đạo Khổng Mạnh ngày xưa cả. Cho nên,
nếu bây giờ chúng ta muốn đi tìm đạo Khổng
Mạnh thì phải tìm ở văn minh Âu châu chứ
không phải ở đâu khác. Chẳng qua vì chúng
ta “học đạo Khổng Mạnh một cách lầm lạc như
thế, cho nên hơn nghìn năm nay hết thảy những
nước theo đạo tà nho đều yếu hèn và phải mất
nước một cách rất nhục nhã” (2, tr.950).
Phan Châu Trinh đánh giá luân lý ở phương
Tây cao hơn so với luân lý ở phương Đông.
Theo sự phân tích của ông, luân lý ở phương
Tây phát triển thành ba giai đoạn, từ hẹp đến
rộng: luân lý gia đình, luân lý quốc gia và luân
lý xã hội, nên mang tính bao quát hơn, thiêng
63Số 24 - Tháng 6 - 2018
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
VĂN HÓA TRUNG - CẬN ĐẠI
liêng hơn. Đặc biệt, Phan Châu Trinh cho rằng:
“Xã hội không phải là cái luân lý cường quyền
của Chính phủ đối với dân, cũng không phải
là sức mạnh của nước nọ đối với nước kia, mà
chính là trong nước thì lấy người này đối với
người kia, suy rộng ra thế giới thì lấy loài người
đối với loài người” (2, tr.933). Chúng ta cần hiểu
rằng, luân lý xã hội mà ông đề cập đến không
phải là một thứ chủ nghĩa quốc tế nào cả, mà
chỉ là một thứ lòng “nhân”, hay “nghĩa” nào đó
mà thôi. Ông có nói thế này: “trong nước người
này đối với người kia nghĩa là: người có giúp
cho người không, người mạnh giúp cho người
yếu như là: bên nước họ mấy nhà giàu bỏ tiền
lập nhà thương, trường học cho con nhà nghèo;
những kẻ đi đường thấy người yếu bị đè nén thì
hết sức bênh vực, Nói tóm lại, xã hội luân lý và
suy tự lòng công đức mà công đức lại là suy ở tư
đức mà ra” (2, tr.933-934).
Bên cạnh việc đề cao nền luân lý phương
Tây, Phan Châu Trinh cũng đề cập đến vấn đề
luân lý phương Đông cao hơn ở hai phương
diện: thứ nhất là cái tính nô lệ của người mình
ngày nay chính là mang từ lúc trong gia đình
chuyên chế mà ra; thứ hai là quốc gia luân lý
của ta từ xưa đến nay chỉ ở trong vòng chật
hẹp hai chữ vua và tôi, không đề cập đến dân
và nước (ngoại trừ thời nhà Trần). Do vậy, dân
trong nước ta lúc bấy giờ không biết đến dân
quyền là gì? Nghĩa vụ là gì? Yêu nước là gì? Từ
đó, Phan Châu Trinh muốn dẫn dắt chúng ta
đến một luận điểm quan trọng hơn, đó là xuất
phát từ những lý do trên mà đạo đức nước ta
không bao gồm chủ nghĩa yêu nước, đáng
lẽ chủ nghĩa yêu nước phải là vấn đề cơ bản
nhất của đạo đức, luân lý. Ông khẳng định,
yêu nước là một lẽ tự nhiên mà không ai có
thể ngăn cấm được: “Một nòi dân cùng một
giọt máu xẻ ra, cùng một thứ tiếng nói, ở trong
miếng đất mà ông cha nó đã đổ máu, đổ mồ hôi,
đổ nước mắt để vỡ vạc ra, thành ra một nước lưu
truyền từ bốn nghìn năm đến giờ, thì được phép
hưởng quyền lợi trong miếng đất ấy, được sống
ở đó, chết chôn đó, giàu nhờ đó, nghèo nương
đó, làm gì thì làm không ai cấm đoán được” (2,
tr.940). Tuy nhiên, Phan Châu Trinh lại loại trừ
bạo lực cách mạng ra khỏi đạo đức, luân lý, ra
khỏi tư tưởng yêu nước, bởi theo ông thương
nước không phải là xui dân tay không nổi lên,
hoặc đi lại nước này cầu nước khác về phá loạn
trong nước, mà chính là dựa vào nước bảo
hộ, dựa vào Pháp cầu tiến bộ, chủ trương hòa
bình, không bạo động.
Ngoài ra, Phan Châu Trinh cho rằng “Đạo
đức và luân lý Đông Tây” có vai trò hết sức
quan trọng, không chỉ đối với bản thân mỗi
con người, mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với
đất nước, với dân tộc.
Đối với bản thân mỗi con người, đó là
những chuẩn mực để khẳng định mình đang
tồn tại trong mối quan hệ giữa con người
với con người, giữa con người với thế giới tự
nhiên. Ông viết: “Đã gọi là người thì phải có
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm. Nhân là có lòng
thương người, nghĩa là làm việc phải, lễ là ăn ở
cho có lễ độ, trí để làm việc cho đúng, tín là nói
với ai cũng giữ lời cho người ta tin mình mới làm
được việc, cần là làm việc phải siêng năng, kiệm
là ăn ở dành dụm trong lúc no để phòng lúc đói,
lúc có đề phòng lúc không Người có đạo đức
tức là người đã ở trong đạo làm người vậy” (2,
tr.930).
Đối với mỗi quốc gia, dân tộc thì đạo đức,
luân lý càng có ý nghĩa to lớn, nó không chỉ tạo
ra giá trị, sức mạnh của mỗi quốc gia mà nó
còn tạo ra nội lực để giải quyết các vấn đề lịch
sử xã hội đặt ra. Ông cho rằng, “từ xưa đến nay
bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu
vàng, dầu trắng, dầu yếu, dầu mạnh đã đứng
cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế
giới, thì chẳng những thuần nhờ các sức mạnh
mà thôi, mà phải nhờ có đạo đức làm gốc nữa,
nhất là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn
đứng lên khỏi bị người đè lên trên thì lại cần phải
có một cái nền đạo đức vững chặt hơn dân tộc
đang giàu mạnh hơn mình” (2, tr.928).
Ngoài việc giải quyết thấu đáo các chuẩn
mực đạo đức chung mà con người phải thực
hiện để khẳng định giá trị làm người của mình,
Số 24 - Tháng 6 - 201864
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đó là thương dân, đó là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
Phan Châu Trinh còn đưa ra các chuẩn mực đạo
đức cần phải có trong từng mối quan hệ cụ thể
trong xã hội như: vua tôi, cha con, anh em, vợ
chồng, bè bạn trên cơ sở của sự kết hợp giữa
luân lý phương Tây và luân lý phương Đông.
Thông qua sự kết hợp hài hòa này, cho
thấy Phan Châu Trinh có một tầm nhìn sâu sắc,
đậm tính biện chứng khi biết giữ lại những giá
trị đạo đức, luân lý của nước ta, tiếp thu các
giá trị đạo đức, luân lý tiến bộ của phương Tây
rồi kết hợp lại với ngoại diên rộng lớn hơn: đó
là quốc gia luân lý, là xã hội luân lý - tức dân ta
ai ai cũng biết đến nghĩa vụ của mình đối với
đất nước, với dân tộc. “Được như thế thì chẳng
những nước Việt Nam sau này được giàu mạnh,
mà trong thế giới này bất kỳ dân nào muốn đến
ăn chung ở đậu trên miếng đất này cũng không
dám đem lòng khinh dể ta như ngày nay nữa”
(2, tr.957).
3. Kết luận
Trước tình trạng suy sụp, trì trệ của đạo đức
là nguyên nhân