Tóm tắt
Có thể khẳng định, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội là
nhân tố quyết định bản chất cách mạng, khoa học trong tư tưởng công bằng xã hội
của Hồ Chí Minh. Sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội được thể hiện rõ ở một số nội
dung cơ bản: công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, cần được thực hiện một
cách hợp lý; chỉ có con đường cách mạng vô sản mới thực hiện được công bằng
xã hội; nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là công bằng trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản; tách biệt hai phạm trù công bằng xã hội và bình
đẳng xã hội Từ đó, Hồ Chí Minh xây dựng tư tưởng công bằng xã hội rất sâu
sắc và độc đáo, vượt xa các quan niệm về công bằng xã hội trước đó không chỉ về
bản chất mà cả độ sâu sắc và toàn diện, nhất là về điều kiện thực hiện
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội - Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
237|
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI - SỰ VẬN
DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VÀO VIỆT NAM
TS. Vũ Thị Minh Tâm
Học viện Kỹ thuật Quân sự
Tóm tắt
Có thể khẳng định, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội là
nhân tố quyết định bản chất cách mạng, khoa học trong tư tưởng công bằng xã hội
của Hồ Chí Minh. Sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội được thể hiện rõ ở một số nội
dung cơ bản: công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, cần được thực hiện một
cách hợp lý; chỉ có con đường cách mạng vô sản mới thực hiện được công bằng
xã hội; nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là công bằng trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản; tách biệt hai phạm trù công bằng xã hội và bình
đẳng xã hội Từ đó, Hồ Chí Minh xây dựng tư tưởng công bằng xã hội rất sâu
sắc và độc đáo, vượt xa các quan niệm về công bằng xã hội trước đó không chỉ về
bản chất mà cả độ sâu sắc và toàn diện, nhất là về điều kiện thực hiện.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công bằng xã hội.
I. MỞ ĐẦU
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã đấu tranh không mệt mỏi vì sự công
bằng, tiến bộ của xã hội loài ngƣời. Hồ Chí Minh sớm đƣợc trang bị những giá trị công
bằng xã hội trong văn hóa truyền thống của dân tộc và bƣớc đầu tiếp nhận những giá trị
công bằng, bình đẳng của phƣơng Tây trong trƣờng học. Ngƣời lại sớm chứng kiến
những áp bức, bất công tồn tại trong xã hội Việt Nam dƣới chế độ thực dân phong kiến.
Điều này thôi thúc Hồ Chí Minh tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nƣớc đòi dân
chủ, công bằng cho nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc hành trình xuyên qua
nhiều châu lục, khảo sát nhiều chế độ xã hội của Hồ Chí Minh nhằm mục đích tìm con
đƣờng giải phóng cho dân tộc Việt Nam đã giúp ngƣời có điều kiện tìm hiểu lý luận và
thực tiễn thực hiện công bằng xã hội (CBXH) ở các nƣớc trên thế giới. Kế thừa quan
điểm của các nhà tƣ tƣởng trong lịch sử, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã đề cập một cách khá toàn diện về công bằng xã hội, chỉ ra vai
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|238
trò, bản chất, nội dung, giá trị của việc thực hiện công bằng xã hội. Có thể khẳng định,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội là nhân tố quyết định bản chất
cách mạng, khoa học trong tƣ tƣởng công bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
II. NỘI DUNG
Sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa
Mác - Lênin về công bằng xã hội đƣợc thể hiện rõ ở một số nội dung cơ bản sau:
2.1. Thứ nhất, công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, cần được thực hiện một
cách hợp lý
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi công bằng xã hội là một phạm trù có tính lịch sử. Tùy
theo điều kiện lịch sử khác nhau mà công bằng xã hội đƣợc thực hiện tƣơng xứng. Sẽ là
sai lầm nếu mang thƣớc đo công bằng ở thời kỳ lịch sử này áp đặt vào giai đoạn lịch sử
khác. Theo các ông, công bằng xã hội gắn liền với lợi ích giai cấp, tầng lớp xã hội nhất
định cùng với những điều kiện vật chất sinh ra nó.
Từ sự hiểu biết sâu sắc tính lịch sử của phạm trù công bằng xã hội, kế thừa quan
điểm này của các nhà kinh điển Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tới việc thực hiện công
bằng xã hội một cách hợp lý. Tùy vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng giai
đoạn lịch sử để đặt ra những vấn đề thực hiện công bằng xã hội, không đƣợc đƣa ra
những tiêu chí không phù hợp với thực tiễn. Ngƣời luôn nhắc nhở cán bộ ta phải tính
toán một cách lâu dài, công bằng, hợp lý.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm của mình: “Chủ nghĩa xã hội là
công bằng hợp lý” [6]. Công bằng đi liền với hợp lý. Ngôn từ mà Hồ Chí Minh sử dụng
rất đơn giản nhƣng nó mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc. Công bằng xã hội phụ thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể, mang tính tƣơng đối. Nếu tách thực hiện công bằng xã hội ra
khỏi hoàn cảnh cụ thể thì công bằng ấy có thể trở thành không hợp lý, bất công. Sự hợp
lý ở đây đƣợc hiểu là sự phù hợp giữa thực hiện công bằng xã hội với điều kiện khách
quan, thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội của đất nƣớc, nhấn mạnh tới việc coi công
bằng xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu nhƣng không thể nóng vội đòi đạt tới công
bằng xã hội tuyệt đối ngaylập tức.
Theo Hồ Chí Minh, công bằng xã hội phải đƣợc thực hiện từng bƣớc, gia tăng
cấp độ dần dần. Đây là một vấn đề tƣởng chừng đơn giản nhƣng cũng phải có những
bài học thực tiễn để chúng ta nhận thức đúng đắn đƣợc chân lý này. Sự nóng vội, chủ
quan duy ý chí mong muốn xóa bỏ mọi áp bức bất công, xóa bỏ sở hữu tƣ nhân, công
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
239|
hữu hóa toàn bộ tƣ liệu sản xuất, bỏ qua nguyên tắc phân phối theo lao động để thực
hiện phân phối bình quân,... mọi ngƣời đều đƣợc hƣởng sự công bằng, tự do trong khi
trình độ của lực lƣợng sản xuất còn hạn chế, kinh tế xã hội còn thấp kém đã đẩy nƣớc
ta và một số nƣớc vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và toàn diện. Đòi hỏi phải đổi mới
toàn bộ trong đó có việc nhìn nhận lại cách hiểu về công bằng xã hội mà Hồ Chí Minh
đã vạch ra. Công bằng xã hội mang tính hợp lý, việc thực hiện nó phải phù hợp với
thực tiễn, tách rời hiện thực khách quan, thực hiện công bằng xã hội không còn đem lại
công bằng cho mọi ngƣời nữa. Điều này thể hiện rõ nét tính sâu sắc, khoa học trong
quan điểm về công bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hiện công bằng xã hội hợp lý thể hiện khá
đầy đủ trong Chương trình Việt Minh: “1. Công nhân. Ngày làm 8 giờ. Định tiền lƣơng
tối thiểu. Công việc làm nhƣ nhau nhận tiền lƣơng ngang nhau. Cứu tế thất nghiệp. Xã
hội bảo hiểm. Cấm đánh đập, chửi mắngCông nhân già có lƣơng hƣu trí. 2. Nông
dân. Nông dân ai cũng có ruộng cày. Giảm địa tô. Cứu tế nông dân trong những nǎm
mất mùa. 3. Binh lính. Hậu đãi binh lính có công giữ gìn Tổ quốc và phụ cấp gia đình
binh lính đƣợc đầy đủ. 4. Học sinh. Bỏ học phí, bỏ khai sinh hạn tuổi. Mở thêm trƣờng
học. Giúp đỡ học trò nghèo. 5. Phụ nữ. Về các phƣơng diện kinh tế, chính trị, vǎn hoá,
đàn bà đều đƣợc bình đẳng với đàn ông. 6. Thƣơng nhân và các nhà kinh doanh. Chính
phủ hết sức giúp các nhà có vốn tự do kinh doanh. Bộ thuế môn bài và các thứ tạp thuế
do đế quốc đặt ra. 7. Viên chức. Hậu đãi viên chức xứng đáng với công học hành của
họ. 8. Ngƣời già và kẻ tàn tật. Đƣợc chính phủ chǎm nom và cấp dƣỡng. 9. Nhi đồng.
Đƣợc chính phủ sǎn sóc đặc biệt về thể dục và trí dục” [3]. Bên cạnh đó, còn phải:
“Lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thƣ viện để nâng cao trình độ trí dục
cho Nhân dân. Lập thêm nhà thƣơng, nhà đỡ đẻ, nhà dƣỡng lão” [3].
Trong Chương trình Việt Minh, Ngƣời đề cập đến từng đối tƣợng và cách thức
thực hiện công bằng xã hội phù hợp với những đối tƣợng đó. Từ các tầng lớp Nhân dân
lao động: công nhân, nông dân, thƣơng nhân, tới các đối tƣợng chính sách: ngƣời
già, ngƣời tàn tật, trẻ em, thƣơng binh, đều cần đƣợc quan tâm chăm nom. Theo đó,
thực hiện công bằng xã hội phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để tiến hành cho hợp lý.
Để đảm bảo công bằng xã hội đang đƣợc làm đúng phải tính tới nhiều yếu tố nhƣ: sự
phát triển không đều giữa các nhóm ngƣời, các vùng, dân tộc khác nhau, các đối tƣợng
chính sách... Từ đó, xây dựng những chính sách ƣu tiên với ngƣời có công, đồng bào
dân tộc thiểu số, trợ giúp tầng lớp dân cƣ ở vùng khó khăn, ngƣời nghèo, ngƣời khuyết
tật... Nhƣ vậy, công bằng xã hội chỉ thực sự có đƣợc khi nó hợp lý với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|240
Tƣ tƣởng công bằng xã hội của Hồ Chí Minh mang tính nhân văn sâu sắc. Ngƣời
quan tâm tới những chính sách xã hội cho những ngƣời yếu thế thiệt thòi ngay từ điểm
xuất phát ban đầu. Sự quan tâm này không dừng lại ở cứu trợ nhất thời hay giúp đỡ thụ
động theo lối bao cấp. Đây không phải là một giải pháp thực hiện công bằng xã hội bền
vững. Nhà nƣớc phải có những chính sách phát triển kinh tế, chăm lo ý tế, giáo dục, ổn
định đời sống cho đồng bào. Nhà nƣớc phải cử cán bộ giúp đồng bào định canh định
cƣ, bảo vệ rừng, làm phân bón, làm ruộng bậc thang, cải tiến kỹ thuật canh tác để họ có
thể dần dần tự lực cánh sinh. Ngƣời chú trọng việc bồi dƣỡng, giáo dục, cất nhắc cán
bộ địa phƣơng, cán bộ dân tộc và tin tƣởng vào sự tiến bộ của đồng bào. Nhƣ vậy,
không đồng nhất giữa các chính sách ƣu đãi với việc bao cấp trong chính sách xã hội,
giúp đồng bào tự lực vƣơn lên, “không nên chỉ ỷ lại vào Chính phủ” [6] chính là điểm
hợp lý trong thực hiện công bằng xã hội của Hồ Chí Minh. Ngƣời luôn nhấn mạnh việc
“phải tính toán một cách lâu dài, công bằng, hợp lý” [6].
Quan điểm công bằng hợp lý đƣợc Hồ Chí Minh khẳng định nhất quán. Nhất là
trong điều kiện kinh tế còn chƣa phát triển cao càng cần phải thực hiện công bằng xã
hội, không đƣợc viện lý do kinh tế khó khăn để gạt bỏ vấn đề này. Ngƣời yêu cầu tránh
việc cào bằng chia đều cái khổ cho mọi ngƣời hay tập trung hết cho phát triển kinh tế
để Nhân dân sống quá kham khổ hoặc chờ tới khi kinh tế dƣ giả mới tính tới thực hiện
công bằng xã hội.
Trong giai đoạn đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nƣớc ta còn nghèo
nàn, kiệt quệ do hậu quả của chế độ thực dân phong kiến. Nhƣng dù khó khăn đến đâu,
Hồ Chí Minh cũng nhất quán quan điểm: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên” [9]. Ở đây, không phải Hồ Chí Minh coi
nhẹ vai trò nhân tố kinh tế mà Ngƣời so sánh nhằm nhấn mạnh việc phát triển kinh tế
phải gắn liền với thực hiện công bằng xã hội. Công bằng xã hội vừa là chính sách xã
hội vừa là chính sách kinh tế. Giữa các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau,
tƣơng trợ nhau cùng phát triển. Kinh tế là tiền đề vật chất để thực hiện công bằng xã
hội, đồng thời, sự ổn định của xã hội là nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hồ Chí Minh rất sáng suốt, đánh giá đúng những khó khăn khi thực hiện công
bằng xã hội. Trong chừng mực nhu cầu của con ngƣời và khả năng hiện thực của kinh
tế xã hội còn mâu thuẫn chƣa thể giải quyết thì không thể có đƣợc công bằng xã hội
tuyệt đối. Ta chỉ có thể đòi hỏi công bằng xã hội ở mức độ hợp lý. Tức là những cống
hiến trí tuệ và sức lực của chúng ta cho xã hội đƣợc đền đáp tƣơng xứng. Ngƣời lƣời
lao động, cống hiến thì không đƣợc hƣởng thụ và không chấp nhận những kẻ trục lợi,
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
241|
buôn gian, bán lận, tham nhũng, hƣởng lợi không chính đáng “Ngồi mát ăn bát vàng,
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải quét đi” [6]. Trong xã hội sẽ còn tồn tại những bất
công mà chúng ta phải tạm thời chấp nhận và khắc phục dần dần “cố nhiên phải tìm
cách làm cho công bằng hợp lý, nhƣng cũng khó hoàn toàn” [6].
2.2. Thứ hai, chỉ có con đường cách mạng vô sản mới thực hiện được công bằng xã hội
Đến với các quốc gia tƣ bản nổi tiếng với những giá trị về dân chủ, công bằng,
bình đẳng, bác ái nhƣ: Anh, Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu thực tiễn đời sống
Nhân dân ở các quốc gia này và hiểu rõ thực chất của nền dân chủ tƣ sản. Bản chất bóc
lột, bất công ẩn sau tuyên ngôn dân chủ, công bằng của nền dân chủ tƣ sản đã đƣợc Hồ
Chí Minh nhìn nhận, đánh giá bằng chính những trải nghiệm thực tiễn của bản thân.
Ngƣời nói: “Khi sang các nƣớc Châu Âu, tôi thấy ở đó cũng có một số ngƣời rất giàu
“ngồi mát ăn bát vàng”, và lớp ngƣời Nhân dân lao động rất nghèo khổ” [8]. Khi đến
Mỹ, Ngƣời cũng nhận thấy tình cảnh tƣơng tự: “Ở Mỹ có một số ngƣời rất giàu có, họ
sống cực kỳ xa hoa,. và có rất đông ngƣời lao động rất cực khổ” [8]. Hồ Chí Minh đã
nhận thấy bản chất bóc lột, bất công của nhà nƣớc tƣ sản, tự nhận là cộng hòa và dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tƣớc lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Ngƣời
đánh giá tất cả những tƣ tƣởng tự do, bình đẳng, bác ái mà chúng giƣơng cao đều là giả
dối để che đậy bản chất ngƣợc lại của chúng mà thôi. Theo Ngƣời, chúng dùng chữ tự
do, bình đẳng, đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến, khi dân đánh đổ
phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân. Sự kiện gửi Bản yêu sách tới
Hội nghị Versailles đòi quyền dân chủ, công bằng cho Nhân dân Việt Nam bị chính
những kẻ nhân danh chính nghĩa từ chối thì Hồ Chí Minh càng không thể tin tƣởng vào
lý tƣởng công bằng xã hội của nền dân chủ tƣ sản.
Khi tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận định đây là cái cần thiết cho đất nƣớc, là
con đƣờng giải phóng cho dân tộc ta. Từ đó, Ngƣời nhất quán lựa chọn con đƣờng cách
mạng vô sản. Con đƣờng này sẽ đƣa Nhân dân ta tới xây dựng một xã hội mới, ở đó
vấn đề công bằng xã hội luôn đƣợc quan tâm thực hiện. Phát biểu tại Đại hội thứ nhất
Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc tình hữu ái thực sự và quyền bình
đẳng chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản, trong chủ nghĩa cộng sản ta mới có thể thực hiện
đƣợc sự hòa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở thuộc địa.
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những tƣ tƣởng công bằng xã hội ở các quốc gia
mà Ngƣời tìm đến trong hành trình cứu nƣớc mà còn đấu tranh cho tự do, cho công
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|242
bằng một cách mạnh mẽ. Ngƣời đứng trong hàng ngũ đấu tranh của công nhân các
nƣớc tƣ sản đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, tham gia hội họp, làm báo, tham gia vào các
tổ chức chính trị xã hội. Tất cả những hoạt động thực tiễn đấu tranh đòi quyền công
bằng này cũng tác động không nhỏ tới sự hình thành tƣ tƣởng công bằng xã hội của Hồ
Chí Minh.
Khi đến nƣớc Nga và trực tiếp tìm hiểu thực tế xây dựng xã hội mới ở Nga, Hồ
Chí Minh đã thấy những khát vọng về một xã hội tốt đẹp, công bằng cho Nhân dân
đang đƣợc thực hiện. Nhà nƣớc Xô Viết là nhà nƣớc của Nhân dân lao động; công bằng
xã hội đƣợc thực hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Hồ Chí Minh chỉ ra: “Nhƣ ở Nga bây giờ, công cụ sinh sản là của chung, không ai
bóc lột ai, của cải làm ra theo nguyên tắc “ai không làm không ăn” mà chia cho ngƣời
làm” [5]. Y tế, giáo dục, các chính sách xã hội cho Nhân dân đƣợc Nhà nƣớc quan tâm.
Ngƣời dân đƣợc miễn học phí, Nhân dân ai ốm thì đƣợc chữa trị, không mất tiền thầy
tiền thuốc, giờ giấc lao động, chế độ nghỉ dƣỡng, ngƣời già, trẻ nhỏ đều đƣợc xắp xếp
hợp lý, công bằng. Hồ Chí Minh xác định đây là một mẫu hình Nhà nƣớc đảm bảo
công bằng xã hội cho Nhân dân. Từ đó, Ngƣời xác định độc lập dân tộc phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mới coi công bằng xã hội là một mục tiêu cần
thực hiện. Chỉ có đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì công bằng xã hội mới đƣợc đảm
bảo. Ngƣời nói: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi ngƣời
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi ngƣời và vì mọi ngƣời, niềm vui, hòa bình và hạnh phúc” [2].
Trong chủ nghĩa xã hội: “Nhà máy, xe lửa, ngân hàng, làm của chung” [8]. Nhƣ vậy,
mô hình Nhà nƣớc mới đƣợc các nhà kinh điển vạch ra và đƣợc Hồ Chí Minh đón nhận
vì nó đáp ứng đƣợc khát vọng giải phóng triệt để cho dân tộc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh công bằng xã hội là một đặc trƣng quan trọng của chủ nghĩa xã hội và
chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, Nhân dân lao động mới đƣợc hƣởng ngày càng nhiều
hơn, đầy đủ hơn công bằng xã hội.
2.3. Thứ ba, nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là công bằng trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản
Từ việc đánh giá chế độ sở hữu tƣ nhân trong chủ nghĩa tƣ bản là nguyên nhân
khách quan của tình trạng bất công xã hội, các nhà kinh điển thấy đƣợc nguyên tắc
phân phối dựa trên lƣợng tài sản, vốn sở hữu là bất hợp lý. Hệ quả của nó là các nhà tƣ
sản ngày càng giàu thêm trên sự nghèo đói của ngƣời lao động. Chủ nghĩa Mác - Lênin
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
243|
khẳng định: nguyên tắc phân phối theo lao động đƣợc coi là công bằng trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Tuy nhiên, nguyên tắc phân phối này không mang lại công bằng tuyệt đối mà vẫn
còn hàm chứa tình trạng bất bình đẳng vì những ngƣời lao động không phải ai cũng
nhƣ ai, ngƣời này khác ngƣời kia về thể chất và tinh thần, trình độ lao động, hoàn cảnh
gia đình... Vì vậy: “Với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự nhƣ
nhau vào quỹ tiêu dùng xã hội, thì trên thực tế, ngƣời này vẫn lĩnh nhiều hơn ngƣời kia,
ngƣời này vẫn giàu hơn ngƣời kia” [1].
Theo nguyên tắc này thì mỗi ngƣời sản xuất sẽ đƣợc nhận trở lại từ xã hội một số
lƣợng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lƣợng lao động mà họ cung cấp cho xã
hội, sau khi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất, cũng nhƣ duy trì
đời sống cộng đồng đã đƣợc khấu trừ. Khi bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Hồ
Chí Minh khẳng định đây là nguyên tắc phân phối công bằng cần đƣợc áp dụng triệt để.
Theo các nhà kinh điển, thực chất công bằng xã hội là mối quan hệ lợi ích của con
ngƣời. Trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thì lợi ích kinh tế là căn
bản nhất. Vì vậy, thực hiện công bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa quyết
định tới vấn đề này ở các lĩnh vực khác.
Nguyên tắc phân phối lợi ích đƣợc Hồ Chí Minh chỉ ra nhƣ sau: “Lao động nhiều
hƣởng nhiều, lao động ít hƣởng ít, không lao động thì không hƣởng” [6]. Có thể thấy
đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong điều kiện nƣớc ta hiện nay. Điều này thể
hiện địa vị làm chủ nƣớc nhà, làm chủ tƣ liệu sản xuất của ngƣời lao động. Mọi ngƣời
đƣợc hƣởng quyền lợi ngang nhau ở những công hiến ngang nhau. Ngƣợc với điều này là
vô lý, không công bằng: “Lao động ít mà muốn thu nhập nhiều thì rất vô lý” [7]. Hƣởng
thụ không tƣơng xứng với cống hiến, không cống hiến gì mà đòi hƣởng thụ là đi ngƣợc với
nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng của Hồ Chí Minh. Áp dụng nguyên tắc đúng đắn
này trong nền kinh tế sẽ giúp việc thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đạt
hiệu quả cao nhất.
Không dừng lại ở nguyên tắc phân phối lợi ích, Hồ Chí Minh còn yêu cầu việc
phân phối phúc lợi xã hội cũng cần phải đảm bảo công bằng. Làm thế nào để mọi
ngƣời dân đều đƣợc Nhà nƣớc chăm lo, cải thiện đời sống: “Phải phân phối cho công
bằng hợp lý, từng bƣớc cải thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khỏe và giải trí của
Nhân dân” [9]. Những yêu cầu thiết yếu của Nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần đều
cần có sự quan tâm của Nhà nƣớc thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Điều này làm nổi
bật tính nhân văn, triệt để trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội. Nhóm
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|244
những ngƣời thiệt thòi, yếu thế, không có khả năng lao động càng cần tới sự giúp đỡ
đùm bọc của toàn xã hội: “Ngƣời tàn tật, già yếu, cháu bé không phải không lao động
đƣợc mà không đƣợc ăn. Nhà nƣớc, xã hội giúp đỡ họ” [6]. Nhƣ vậy phân phối lợi ích
và phân phối phúc lợi xã hội phải đi liền với nhau. Thiếu một phần là đã hiểu không
đúng bản chất nguyên tắc trong thực hiện công bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
Theo Mác, xã hội mới sẽ còn tồn tại những bất công khi nó mới lọt lòng từ xã hội
tƣ bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài. Ông khẳng định: “Nhƣng đó là những
thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc
nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tƣ bản chủ nghĩa ra sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền
không bao giờ có thể ở một mức độ cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của