Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle - Giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt Cùng với sự vận động và biến đổi không ngừng của lịch sử xã hội, nhận thức của con người được nâng cao, tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và ngày càng chiếm ưu thế. Dòng chảy tư tưởng pháp quyền của nhân loại được khơi nguồn bởi các triết gia nổi tiếng như: Hàn Phi và Aristotle. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle; từ đó, rút ra những giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle - Giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 115 Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle - Giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Han Fei and Aristotle’s rule of law thought – Values and history lessons for the building of the socialist rule of law state of Viet Nam today ThS. Đỗ Thị Thùy Trang Trường Đại học Tài chính - Kế toán TS. Võ Văn Dũng Trường Đại học Khánh H a M.A. Do Thi Thuy Trang University of Finance and Accountancy Ph.D. Vo Van Dung The University of Khanh Hoa Tóm tắt Cùng với sự vận động và biến đổi không ngừng của lịch sử xã hội, nhận thức của con người được nâng cao, tư tưởng pháp quyền đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và ngày càng chiếm ưu thế. Dòng chảy tư tưởng pháp quyền của nhân loại được khơi nguồn bởi các triết gia nổi tiếng như: Hàn Phi và Aristotle. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle; từ đó, rút ra những giá trị và bài học lịch sử đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: pháp quyền, Hàn Phi, Aristotle, giá trị, bài học lịch sử, nhà nước, xã hội chủ nghĩa... Abstract Along with the movement and continuous change of social history, human awareness is enhanced, the rule of law thought has appeared since ancient times and has been increasingly dominant. The currents of human’s rule of law thought have been inspired by the famous philosophers as: Han Fei and Aristotle. In this article, we focus on analyzing the rule of law thought of Han Fei and Aristotle; from which, we draw the values and history lessons on building The Socialist Rule of law State of Vietnam today. Key words: rule of law, Han Fei, Aristotle, values, history lessons, State, Socialist 1. Điều kiện lịch sử - xã hội hình thành tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle Hàn Phi (280 – 233 tr. CN) là nhà tư tưởng, nhà chính trị lỗi lạc của Trung Hoa cổ đại. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về “pháp”, “thế”, “thuật” của Pháp gia thành một học thuyết có tính hệ thống; trong đó, 116 tư tưởng Pháp gia là bản thiết kế; tư tưởng vô vi nhi trị của Đạo gia là kỹ thuật thi công; tư tưởng Nho gia như là chất liệu xây dựng. Chính sự kết hợp một cách độc đáo, tài tình ba học thuyết Nho - Lão - Pháp, Hàn Phi đã trở thành đại biểu xuất sắc nhất của Pháp gia và sách Hàn Phi Tử được coi là bộ “tập đại thành” những tư tưởng về pháp luật trong thời Xuân Thu - Chiến quốc. Đến cuối thời nhà Chu, xã hội rơi vào rối ren và loạn lạc vì thiên tử nhà Chu chỉ lo chơi bời ham mê tửu sắc, bóc lột, hà hiếp nhân dân. Trong nước, lòng dân oán thán và nổi dậy để lật đổ nhà Chu. Do đó, mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân trở nên vô cùng căng thẳng, đã đẩy mâu thuẫn xã hội lên đến đỉnh điểm. Trước tình hình đó, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi ra đời thể hiện một bước tiến nhất định trong quá trình hoàn thiện nhà nước, đặc biệt là góp phần củng cố mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Aristotle (384 - 322 tr. CN) là triết gia nổi tiếng và là bộ óc bách khoa của nền khoa học và triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là người sáng lập ra khoa học chính trị bởi những cống hiến vĩ đại trong lĩnh vực nhà nước và pháp quyền. Suốt cả cuộc đời, Aristotle đã đi đến rất nhiều nơi, trải nghiệm được rất nhiều điều, tận mắt chứng kiến những diễn biến chính trị tại nhiều thị quốc. Chính sự dày công tìm tòi, bám sát thực tiễn đầy biến động trong đời sống chính trị kết hợp với lượng lớn tri thức được tích lũy từ trước, cùng những suy tư trăn trở của triết gia đã giúp ông vạch ra được những tư tưởng mang ý nghĩa lớn lao mà người đời sau phải kính nể. Xã hội Hy Lạp thời kỳ chiếm hữu nô lệ chứa đựng bên trong những mâu thuẫn gay gắt làm nảy sinh những trường phái, tầng lớp, lực lượng đối lập nhau do lợi ích giai cấp. Cùng với nó là sự khủng hoảng và suy yếu của nền dân chủ Athens – đã từng được ca ngợi là sự thể nghiệm đầu tiên của nhân loại về mô hình nhà nước dân chủ. Người Hy Lạp phát minh ra dân chủ nhưng đồng thời họ cũng biến dân chủ trở thành tr chơi chính trị. Trước một nền dân chủ đang bộc lộ dần những khuyết tật; kéo theo đó là sự khủng hoảng niềm tin và chao đảo trong đời sống tinh thần do mâu thuẫn giữa khát vọng và hiện thực, giữa nhân dân với giới cầm quyền, các nhà tư tưởng thời kỳ này đã đưa ra nhiều phương án khác nhau để cứu vãn hệ thống thành thị đang hấp hối. Trong bối cảnh đó, học thuyết chính trị của Aristotle ra đời như câu trả lời đầy trách nhiệm của triết gia đối với thời cuộc. Ông được xem là người đặt nền móng vững chắc cho tư tưởng pháp quyền của nhân loại. Nhìn lại lịch sử, chúng ta nhận thấy, đây là thời kỳ đặc biệt của nhân loại. Thời kỳ mà theo Karl Jaspers gọi là “Thời trục” [5, tr.178] của lịch sử loài người, tức là thời kỳ có nhiều biến đổi lớn lao trong đời sống xã hội, “đã song song xảy ra những phép lạ phi thường” [5, tr. 179] như một sự gặp gỡ tất yếu, lần đầu tiên ở Hy Lạp, Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại. Hàn Phi và Aristotle là những tên tuổi lớn đã đặt cột mốc cho bước ngoặt lịch sử đó. Họ đã không hẹn mà gặp để giải quyết những vấn đề mà lịch sử - xã hội đặt ra. 2. Nội dung tư tưởng về pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi Tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi được thể hiện rõ trong quan niệm về nhà nước (với đại diện là vua), về nhân dân và mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. 117 Ông cho rằng, dân sẽ vì vua nếu vua tạo cho dân chúng niềm tin bằng hình thức thi hành chính sách thưởng phạt thật nghiêm. Khi dân chúng đã có niềm tin rồi thì họ “nghe nói đến chuyện chiến đấu đã dẫm chân, xắn áo xông vào nơi gươm giáo, giẫm lên lửa đạn, quyết tâm liều chết” [6, tr. 28]. Nếu nhà vua “miệng nói khen thưởng nhưng lại không cho; miệng nói trừng phạt nhưng lại không thi hành. Thưởng phạt đều không chắc như đã nói cho nên dân không liều chết” [6, tr. 28]. Ông nhận thức được nhân dân có vai trò to lớn trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Hàn Phi đề cao vai tr của dân. Ông nói, “nếu không có đất, không có dân, thì Nghiêu Thuấn cũng không thể làm vương” [6, tr. 161]. Sở dĩ nhà vua được yêu và tôn quý là vì; “bậc vua chúa được thiên hạ nhất trí ra sức cùng nâng đỡ cho nên yêu. ọi người cùng đồng l ng lập ông ta lên cho nên ông ta được tôn quý” [6, tr. 257]. Do vậy, người làm vua nếu không biết yêu dân nước mình mà đi yêu dân nước khác, thì dân trong nước không ủng hộ ông ta. Từ đó, ông chủ trương, “vua và tôi thân yêu nhau, cha và con giữ gìn cho nhau” [6, tr. 13 ]. Người làm vua phải nghĩ đến dân, phải lấy cái lợi lớn của dân đặt lên hàng đầu, không nên ham cái lợi nh mà hại đến cái lợi lớn. Trong nước, nếu sưu dịch nhiều thì dân khổ, dân khổ thì k có quyền thế nổi lên dẫn đến sưu dịch ngày một tăng. Để làm cho dân bớt khổ thì nhà vua phải giảm sưu dịch. Nhà vua đối với dân thì phải giữ chữ tín. Nếu “điều tín nh giữ được thì điều tín lớn được xác lập, cho nên vị vua sáng chứa chất chữ tín. Việc thưởng phạt không tin chắc thì mệnh lệnh và những điều ngăn cấm không được thi hành” [6, tr. 318]. Để gắn kết mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trở nên vững chắc hơn thì Hàn Phi chủ trương dùng đạo. “Đạo của bậc vua sáng là làm đúng pháp luật. Pháp luật của ông ta hợp với l ng người. Cho nên khi cai trị thì theo đúng pháp luật, khi rời b thì nghĩ đến đạo” [6, tr. 2 6]. Việc giáo hóa dân cũng như trồng cây. Nếu “trồng cây lê, cây quýt thì lúc ăn được quả ngọt, lúc ngửi, được mùi thơm. Trồng cây chỉ cúc thì khi lớn lên gai đâm người. Cho nên người quân tử cẩn trọng trong việc trồng cây gì” [6, tr. 361]. Theo tư tưởng Hàn Phi, việc trồng người là việc làm vô cùng quan trọng của nhà vua, nó quyết định đến sự thịnh suy của một nước. Do vậy, nhà vua phải đặt ra pháp chế để dân không phạm phải những lỗi lầm. Như vậy, nếu trên dùng hình phạt thì bọn gian đều chấm dứt, bọn gian không c n thì sẽ có lợi cho dân. “Dùng pháp luật làm cho người ta phục theo. Nhờ vậy mà tiếng khen lan rộng và tên tuổi có oai, dân trị mà nước yên, đó là ph p biết dùng dân vậy” [6, tr. 83]. Hàn Phi chủ trương nhà vua phải “phát chẩn cho k ngh o và thương xót tới những người mồ côi và góa bụa, thi hành ân huệ để trợ cấp cho những người không có đủ” [6, tr. 369] như thế dân sẽ theo. Những năm gặp hạn hán thì nhà cai trị phải mở kho thóc để cấp cho dân ngh o, phân phát của cải trong kho cho dân. Để đảm bảo pháp quyền được thực thi một cách có hiệu quả, Hàn Phi chủ trương, thiết lập nên một hệ thống quan lại giúp vua thi hành chính sách và tấu tình hình thực tế. Ông nhấn mạnh, người làm vua tuy gi i nhưng không thể không có bầy tôi, không có bề tôi không phải là không có người mà là không có người trung thành với vua. “Dùng công việc để sử dụng người, đó là cái then chốt c n hay mất, trị 118 hay loạn” [6, tr. 515] của một nước. Người làm quan phải hết sức phụng sự và xây dựng đất nước, phải ở gần những người hiền, tránh xa những người hư h ng, sửa đổi những điều rối loạn. uốn trị dân, nhà vua chỉ cần trị quan lại, vì “chỉ nghe có quan lại làm loạn nhưng dân vẫn cứ tốt, nhưng không nghe có dân làm loạn nhưng quan vẫn cứ trị an một mình. Cho nên bậc vua sáng cai trị quan lại mà không cai trị dân” [6, tr. 39 ]. Hàn Phi cho rằng, chỉ có việc thưởng hậu, phạt nặng thì dân chúng mới tận tâm, tận lực vì nhà vua. Ông cho rằng, “Vua và tôi không có tinh thần của những người trong cốt nhục” [6, tr. 127]. Từ việc phân tích tâm lý của dân, Hàn Phi cho rằng, “hình phạt nghiêm là điều mà dân vẫn sợ. Phạt nặng là điều dân vẫn gh t. Cho nên bậc thánh nhân bày ra cái người ta vẫn sợ để cấm không cho người ta làm bậy; đưa cái người ta vẫn gh t để ph ng điều gian dối của họ” [6, tr. 13 ], chính vì thế mà nhà nước mới trị an. Việc thưởng phạt phải “khiến cho k mạnh không lấn át người yếu, k đông không xúc phạm số ít, người già cả được th a l ng, người tr và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm phạm” [6, tr. 13 ]. Khi thưởng phải x t đến công lao. Nếu nhà vua thưởng những người không có công thì dân oán thán, vì của cải hết. “Dùng thưởng mà sai lầm là b mất dân, dùng hình phạt mà sai lầm thì dân không sợ. Có thưởng nhưng không đủ để khuyến khích, có phạt nhưng không đủ để ngăn cấm thì dù nước có lớn cũng nguy” [6, tr. 162]. Hình phạt và khen thưởng không được x t rõ thì dân không có công mà lại cầu được thưởng, có tội mà mong được tha. Việc thưởng phạt của nhà vua là tùy theo chỗ làm đúng hay sai. Nếu người làm vua “miệng nói khen thưởng nhưng lại không cho; miệng nói trừng phạt nhưng lại không thi hành. Thưởng và phạt không chắc chắn” [6, tr. 28] thì dân không tin. uốn dân tin trước hết vua biết b điều riêng tư, cong quẹo, mà theo ph p công thì dân sẽ được yên mà nước sẽ được trị. Từ sự phân tích trên cho thấy những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của Hàn Phi. Ông đã đánh giá rất cao vai tr của dân, ông khẳng định “làm vua mà không có bầy tôi thì làm sao mà có nước được” [6, tr. 73]. Tư tưởng của ông đã có những tiến bộ nhất định trong mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân. Tư tưởng pháp quyền của Aristotle Tư tưởng pháp quyền của Aristotle được thể hiện xuyên suốt trong những luận giải chính trị của ông. Để chỉ ra nguồn gốc ra đời của nhà nước, Aristotle cho rằng, sở dĩ con người sống quần tụ với nhau, tập hợp lại trở thành gia đình, làng xã, rồi đến quốc gia vì cùng hướng đến chung một lợi ích là đạt đến đời sống tốt đẹp cho cả cá nhân và cộng đồng. Aristotle cho rằng, “mỗi quốc gia là một loại cộng đồng, và mỗi cộng đồng được thành lập hướng đến với một số điều tốt đẹp; vì con người luôn luôn hành động để đạt được những gì mà họ cho là tốt. Tuy nhiên, nếu tất cả các cộng đồng đều hướng đến một số mục tiêu tốt đẹp nào đó thì nhà nước hoặc cao nhất là cộng đồng chính trị, là bộ phận cao nhất, và bao gồm tất cả phần còn lại, hướng đến điều tốt đẹp ở mức độ cao hơn và nhắm đến mức độ cao nhất” [1, p. 3] và lý do để nhà nước tồn tại là để giúp cho công dân sống một đời sống tốt. Điều đó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và công dân. Ở đây, nhà nước như là phương tiện để giúp công dân đạt được những mục đích của cuộc sống; nhưng đồng thời, chính những ước vọng cao đẹp 119 đó sẽ là điều kiện để duy trì sự tồn tại của nhà nước đó. Con người “tự bản chất là một động vật chính trị” [1, p. 5], tồn tại với tư cách là một bộ phận gắn bó, không thể tách rời của nhà nước. Chỉ có thể sống trong một cộng đồng nhà nước, tạo nên một liên hợp bao gồm nhiều cá nhân với nhau, con người mới có thể th a mãn được những nhu cầu và được hưởng đầy đủ những quyền công dân của mình. Quyền công dân được thể hiện rõ trong vai tr mà nhà nước mang lại. Trước hết, mục đích tối cao của việc hình thành và duy trì sự tồn tại của nhà nước là mang lại cuộc sống tốt cho con người. Aristotle đã lấy tiêu chuẩn để xác định các hình thức nhà nước kiểu mẫu là khả năng phụng sự lợi ích chung. Thể chế nhà nước nào lấy lợi ích xã hội làm cứu cánh, thì được liệt vào hình thức kiểu mẫu; ngược lại, thể chế nhà nước nào tuyệt đối hóa quyền lực của cá nhân hay của một nhóm thiểu số thì bị quy về hình thức lệch lạc. Tiếp đến, nhà nước phải có vai tr đào tạo công dân về mặt đức hạnh. Nhiệm vụ chính của nhà nước là giáo dục công dân đi đến hoạt động một cách ngay thẳng, dạy cho họ biết nhắm đến mục tiêu cao thượng của cuộc sống và vững bước trong cuộc sống đó. Do đó, công dân sẽ là những người can đảm, điềm tĩnh, tự do, cao thượng, thực hiện công bằng, cư xử như những người bạn hoàn hảo, tóm lại là những con người “đẹp và tốt”. Với tư cách là thành viên của cộng đồng chính trị, công dân là người có quyền tham gia chính sự và giữ những chức vụ trong chính quyền, tức là được ph p tham gia vào những công việc của thành bang; bởi theo ông, mọi công dân có đức hạnh đều có quyền cai trị. Như vậy, quyền công dân được thể hiện rõ trong vai tr mà nhà nước mang lại cho người dân, khi cá nhân đó được sống với tư cách là thành viên của xã hội; đó quyền được hưởng một cuộc sống tốt đẹp mà nhà nước – một cộng đồng chính trị hoàn hảo nhất – mang lại, quyền được giáo dục, quyền được tham gia vào chính sựĐây là những quyền hết sức cơ bản và chính đáng của con người, được Aristotle đưa ra ngay từ thời cổ đại. Quyền công dân chính là một trong những biểu hiện cơ bản của tư tưởng pháp quyền Aristotle cho rằng, vì con người có khả năng nhận thức điều tốt và điều xấu, công bằng và bất công, nên sự xuất hiện của nhà nước được bắt nguồn trực tiếp từ nhu cầu quản lý cộng đồng, quản lý xã hội, vì nếu không có sự quản lý thì con người không thể sống và sống tốt được, không có sự an toàn cho mọi người. Sự ra đời của nhà nước như là nhu cầu tất yếu để th a mãn khát vọng sống và sống tốt đẹp hơn trong trật tự và văn minh. “Bởi vì con người, khi đã hoàn thiện, là động vật cao nhất, nhưng khi tách rời kh i luật pháp và công lý, thì con người là động vật tồi tệ nhất, bởi vì sự bất công được trang bị kỹ là nguy hiểm hơn, và con người từ khi sinh ra đã có đôi tay nghĩa là có sự thông minh và đạo đức, những điều này có thể được con người sử dụng cho những mục đích tồi. Vậy nên, nếu con người không có đức hạnh, thì con người là động vật xấu xa và man rợ nhất, tham lam và ham muốn nhiều. Tuy nhiên, công lý là dây buộc của con người trong các nhà nước, vì quản lý sự công bằng, quyết định công bằng là gì, đó là nguyên tắc thiết lập trật tự trong xã hội chính trị” [1, p. 6]. Để đảm bảo pháp quyền có hiệu quả, theo Aristotle, cần phải có một hệ thống các cơ quan chính quyền cần thiết và một mạng lưới pháp luật để quản lý con người 120 và giám sát hoạt động xã hội. Do đó, Aristotle là người đầu tiên chỉ ra những cơ quan chính quyền trong bộ máy nhà nước và sự cần thiết phải kết hợp nhiều cơ quan lại với nhau để hoạt động của nhà nước có hiệu quả. Trong số những cơ quan đó, Aristotle đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các cơ quan pháp luật. Ông quan niệm rằng, trong bất kỳ nhà nước nào cũng cần phải có những yếu tố bắt buộc: cơ quan làm ra luật có trách nhiệm trông coi việc nước, các cơ quan thực thi pháp luật và các toà án. Từ đó, Aristotle là người đầu tiên chỉ ra sự phân quyền trong bộ máy nhà nước, gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong nhà nước có sự phân chia quyền lực như Aristotle nêu ra, để đảm bảo cho việc mỗi cơ quan thực hiện đúng chức năng và quyền hạn của mình, quyền lực được thực thi, thì phải có hệ thống pháp luật nghiêm minh, chặt chẽ và thống nhất. Điều này chứng t , ông luôn đề cao vai trò của pháp luật trong việc quản lý xã hội và giáo hóa con người vì khi tách rời kh i luật pháp và công lý, thì con người trở nên tồi tệ nhất trong số các loài động vật. Như thế, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân sẽ bị phá vỡ, xã hội sớm hay muộn sẽ rơi vào vòng loạn lac. ối quan hệ không tách rời giữa công dân với nhà nước là mối quan hệ hai chiều và có tác động biện chứng lẫn nhau; do đó, mối quan hệ này không chỉ được thể hiện ở những quyền lợi mà nhà nước mang lại cho công dân mà c n thể hiện ở nghĩa vụ công dân phải thực hiện đối với nhà nước. Con người chỉ có thể tồn tại với tư cách là “động vật chính trị”, là thành viên của xã hội và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội; do đó cần phải có ý thức về bản thân và trách nhiệm đối với xã hội. Nhiệm vụ của công dân là giữ cho sự an toàn của chế độ. Aristotle xem đó là phẩm chất, là đức hạnh chung của mọi công dân. Như vậy, người công dân trong quan điểm của Aristotle không chỉ có những quyền nhất định mà c n phải có nghĩa vụ đối với nhà nước. Nhà nước phải đảm bảo lợi ích chung và mang lại cuộc sống tốt đẹp cho những công dân của mình; và ngược lại, công dân phải có những nhiệm vụ nhất định đối với nhà nước (trong đó nhiệm vụ cao nhất là tránh làm những việc ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ). Như vậy, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là sự tương quan hai chiều, quyền lợi luôn đi đôi với nghĩa vụ. Mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ chủ đạo trong xã hội, vừa thể hiện vai trò của một nhà nước là phục vụ, vừa thể hiện trách nhiệm của công dân trước nhà nước. Điều này đã toát lên tư tưởng pháp quyền khá tiến bộ của ông. 3. Giá trị tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle Giá trị thứ nhất, tư tưởng pháp quyền của Hàn Phi và Aristotle hướng đến một xã hội thịnh trị Hàn Phi và Aristotle là những nhà tư tưởng nổi tiếng của thời kỳ cổ đại. Cả hai ông đều chứng kiến một xã hội đang bị đổ vỡ những giá trị và niềm tin. Xã hội mà Hàn Phi đang sống rơi vào tình trạng bạo loạn và phân tranh. Vì thế, tư tưởng về pháp quyền của ông ra đời nhằm mục đích đưa nước từ loạn thành trị. Cũng tương tự như thế, ở phương Tây, các thành bang của Hy Lạp cũng lâm vào bế tắc và đang rất cần có những phương án đưa xã hội để thoát ra kh i sự khủng hoảng do những khuyết tật của nền dân chủ mang lại. Do vậy, tư tưởng về pháp quyền cùng với những vấn đề khác trong chính trị học của Aristotle đều nhằm giải quyết những yêu 121 cầu cấp bách mà thời đại ông đặt ra. Bối cảnh lịch sử và dấu ấn đẳng cấp được in đậm trong tư tưởng, tư tưởng pháp quyền của cả hai ông đều thể hiện khát vọng hướng đến một xã hội thịnh trị, một nhà nước tốt đẹp nhất dành cho con người. Tư tưởng pháp quyền là đ i h i vô cùng bách cấp trong bối cảnh xã hội rơi vào loạn lạc. Vì thế, nó góp phần tạo ra hiệu quả to lớn cho học thuy