Tóm tắt. Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam là một bộ phận thuộc ý thức xã
hội, đề cao lợi ích thiết thực để đáp ứng nhu cầu của con người. Ở mỗi giai đoạn
khác nhau, tư tưởng thực dụng được biểu hiện khác nhau, song nhìn chung đều
phản ánh nhu cầu cuộc sống của con người. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của cơ chế
thị trường, hiện nay tư tưởng thực dụng của người Việt Nam cũng thể hiện cả mặt
tích cực và hạn chế. Tìm ra giá trị để phát huy và hạn chế mặt tiêu cực trong tư
tưởng thực dụng của người Việt là góp phần phát triển tư duy lý luận, đồng thời
gián tiếp góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2012, Vol. 57, No. 6, pp. 121-126
TƯ TƯỞNG THỰC DỤNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Bùi Thị Tỉnh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
E-mail: tinhtu-02@yahoo.com
Tóm tắt. Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam là một bộ phận thuộc ý thức xã
hội, đề cao lợi ích thiết thực để đáp ứng nhu cầu của con người. Ở mỗi giai đoạn
khác nhau, tư tưởng thực dụng được biểu hiện khác nhau, song nhìn chung đều
phản ánh nhu cầu cuộc sống của con người. Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của cơ chế
thị trường, hiện nay tư tưởng thực dụng của người Việt Nam cũng thể hiện cả mặt
tích cực và hạn chế. Tìm ra giá trị để phát huy và hạn chế mặt tiêu cực trong tư
tưởng thực dụng của người Việt là góp phần phát triển tư duy lý luận, đồng thời
gián tiếp góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Từ khóa: Tư tưởng thực dụng, người Việt Nam, ý thức xã hội, chủ nghĩa thực dụng,
tư duy lý luận.
1. Mở đầu
Theo Từ điển từ và ngữ của Nguyễn Lân, khái niệm thực dụng được hiểu như sau:
“Thực” có nghĩa là “đúng đắn” [3;1786] là “thật”, đúng với cái có thật, sự thật, phù hợp
với cái vốn có, cái bản chất, cái chính nó, đối lập với cái ảo, cái giả; “Dụng” có nghĩa là
“dùng”, “chỉ dùng vào mục đích sinh lợi cụ thể, tức thì” [3;1786], đem cái gì đó để làm
việc, hoạt động nhằm đạt được mục đích, có tính hiệu quả và mang lại giá trị lợi ích vật
chất hoặc tinh thần. Với tinh thần ấy, triết lí thực dụng của chúng ta rất gần gũi, có điểm
tương đồng với lý thuyết thực dụng do người Mĩ sáng lập vào cuối thế kỷ XIX. Chủ nghĩa
thực dụng Mĩ cũng đặt mục tiêu hàng đầu là tính hữu dụng, hiệu quả, là cái có lợi cho
cuộc sống của con người. Chủ nghĩa thực dụng được người Mĩ dùng như là lý thuyết chỉ
đạo hành động cho con người trong cuộc sống. Còn ở nước ta, do yêu cầu của cuộc sống,
tư tưởng thực dụng được hình thành sớm, tự phát và trực tiếp để đáp ứng nhu cầu tức thì,
trước mắt của con người. Ở những giai đoạn khác nhau, do sự biến đổi của tồn tại xã hội
và chịu ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng bên ngoài, tư tưởng thực dụng cũng có những
biến chuyển nhất định, song chưa mang tầm lý luận như chủ nghĩa thực dụng Mĩ.
121
Bùi Thị Tỉnh
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam trong lịch sử (trước năm
1954)
Là một nước có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh
kéo dài, nên tâm lý thực dụng, đề cao tính thiết thực, hiệu quả, cần cái có thực, hữu dụng
đã xuất hiện rất sớm trong lối sống của người Việt Nam. Do cuộc sống khó khăn, họ luôn
quan tâm, lựa chọn và chú ý đến: cái được, cái mất, cái lợi, cái hại, cái thiệt, cái hơn. Thực
tế cho thấy, để đảm bảo duy trì cuộc sống lâu dài, người Việt luôn suy nghĩ và hành động
theo tính thực tiễn, gắn với sự sinh tồn, những tương quan mà nhu cầu cuộc sống đang
cần. Tinh thần thực tế, thực dụng đó được thể hiện đậm nét qua ca dao, tục ngữ, thành
ngữ. Những quan niệm đề cao vật chất, cái có lợi để đảm bảo cuộc sống như: “Có thực
mới vực được đạo”, “Khôn ngoan hạt gạo, mạnh bạo đồng tiền”, rồi “Mạnh vì gạo, bạo
vì tiền” hay “Có tiền mua tiên cũng được”... là những câu nói cửa miệng của người Việt.
Phải đối mặt với cuộc sống khó khăn, thiếu thốn bộn bề thì việc con người chú trọng đến
những lợi ích thiết thân, cơm áo gạo tiền là điều rất chính đáng. Trong điển truyện Việt
Nam, hình ảnh “Thằng Bờm” từ chối ao sâu cá mè, bè gỗ lim... để lấy nắm xôi là điều hết
sức gần gũi, dễ hiểu. Mặt khác, để duy trì cuộc sống, con người luôn phải lo “Tích cốc
phòng cơ, Tích y phòng hàn”, có ý thức chắt chiu, tiết kiệm, “ăn nhặt để dành”... Khi suy
tính làm ăn thì thường phải tính toán rất thực tế, thiết thực cho cuộc sống với tinh thần
“Ăn cây nào, rào cây ấy”, “có sao ăn vậy”, “ăn sao nói đó” hay “có sao mặc đó”, tức là
phải chấp nhận cuộc sống với những gì như nó vốn có. Thậm chí, trong quan hệ, để đáp
ứng nhu cầu tương quan, thiết thực đôi bên, họ cũng sẵn sàng bày tỏ tính thực tế, sòng
phẳng: “tiền trao cháo múc” hay “hòn đất ném đi, hòn chì trả lại”. Ngay cả trong lĩnh vực
tình cảm, họ cũng bày tỏ tính thiết thực giữa đôi bên, tính triệt để hiệu quả: “Yêu nhau yêu
cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ty họ hàng”. Khi yêu ai thì họ đưa lên tận mây xanh,
nhưng nếu ghét ai thì “không ưa, dưa cũng hóa dòi”, rồi “bới lông, tìm vết”... Những tinh
thần đó thể hiện tính thực tiễn, gắn với hiện thực, thế sinh tồn và đặt trong tương quan với
nhu cầu sống của con người. Tâm lý thực tế đó đã trở thành truyền thống, ăn sâu vào nếp
nghĩ của người Việt Nam và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói một cách
khách quan, tâm lý thực tế, gắn với thực tiễn, hiện thực cuộc sống là rất tích cực khi nó tạo
cho con người thói quen thường xuyên quan tâm và giải quyết những nhu cầu thiết thực
trong cuộc sống, tránh xa những suy nghĩ viển vông. Khi trở thành thói quen, nếp nghĩ
của mọi người thì nó góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy, trải qua chế độ phong kiến trong thời gian rất dài, cùng với thời kỳ quá độ,
với lối sản xuất nhỏ, tư hữu, lối sống thực dụng đã in đậm trong suy nghĩ, trong tư tưởng
con người. Những suy nghĩ thiển cận như “bóc ngắn cắn dài”, “tham bát bỏ mâm”..., tư
tưởng cục bộ địa phương, chỉ thấy cái riêng mà không thấy cái chung, chỉ quan tâm đến
lợi ích cục bộ mà không quan tâm đến lợi ích của cộng đồng, chỉ thấy lợi ích trước mắt
mà không thấy lợi ích lâu dài là những đặc trưng cơ bản của lối sống thực dụng đã tồn tại
trong đời sống của một bộ phận người dân. Lối sống thực dụng đó đã chi phối sâu sắc và
đáp ứng được phần nào nhu cầu của cuộc sống. Tuy nhiên, mặt trái của lối sống đó dễ đưa
122
Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam
con người đến lối sống vị kỷ, tầm thường, quá đề cao lợi ích vật chất so với tinh thần.
2.2. Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1986
Trước năm 1975, chủ nghĩa thực dụng du nhập vào nước ta cùng với sự xâm lược
của đế quốc Mĩ, thông qua sự du nhập văn hoá, lối sống phương Tây bằng nhiều con
đường và phương thức khác nhau. Để thực hiện âm mưu vô hiệu hóa tư tưởng chính trị, lý
tưởng cách mạng của nhân dân ta, Mĩ tăng cường du nhập văn hóa, tư tưởng, lối sống thực
dụng. Bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, trắng trợn, Mĩ đã tuyên truyền cho tầng lớp thanh niên
phương châm sống: lấy vật chất làm mục đích phấn đấu và coi đồng tiền là quý hơn tất cả.
Chính điều này đã hình thành lối sống vụ lợi, ích kỉ, chạy theo lợi ích tầm thường của một
bộ phận thanh niên. Lối sống ấy đã thúc đẩy con người chỉ lao vào kiếm tiền để tiêu xài,
hưởng thụ bằng mọi giá, bất chấp đạo đức, pháp luật. Với họ, lợi ích cá nhân được đặt lên
trên hết. Đồng tiền trở thành thước đo cho các mối quan hệ xã hội, kể cả quan hệ ruột thịt
như cha con, chồng vợ, anh em... Có thể nói, chủ nghĩa thực dụng Mĩ vào nước ta đã bị
biến tướng, mặt trái của nó đã nhanh chóng thâm nhập, làm tha hoá đạo đức và lối sống
của một bộ phận nhân dân đô thị miền Nam lúc bấy giờ.
Từ năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối, cả nước
đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính sự giao lưu, thông thương giữa hai miền đã làm
cho tư tưởng và lối sống thực dụng lan rộng, ảnh hưởng đến một bộ phận nhân dân miền
Bắc. Mặt khác, những năm 80, việc Đảng ta duy trì cơ chế kinh tế hành chính, tập trung
quan liêu bao cấp quá lâu trong bối cảnh mới nên những nhược điểm của nó đã bộc lộ,
nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó
khăn. Tình trạng này làm cho một số tầng lớp nhân dân hoang mang, thiếu niềm tin vào
cuộc sống, và như vậy, tư tưởng thực dụng lại có “đất” để tiếp tục phát triển.
2.3. Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam hiện nay
Từ năm 1986 cho đến nay, nước ta thực hiện sự chuyển đổi mô hình kinh tế, từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chính kinh tế thị trường cùng với sự ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng phương
Tây đã góp phần khắc sâu hơn tư tưởng thực dụng trong suy nghĩ, trong hành động của
con người Việt Nam ở cả hai mặt, tích cực và tiêu cực.
2.3.1. Về mặt tích cực
Với chủ trương đề cao hành động, lợi ích, tính hiệu quả, chủ nghĩa thực dụng đã
kích thích con người tạo ra lợi ích vật chất. Để đạt đến lợi ích đó, con người phải chú ý
phát triển khoa học kỹ thuật, phát triển toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, pháp luật,... đặc
biệt là tri thức khoa học, huy động tối đa tiềm năng con người vào công cuộc kiếm tìm
lợi ích. Như một tất yếu, chủ nghĩa thực dụng đề cao ý chí con người để có được niềm tin,
hy vọng và theo đuổi mục đích mà con người đã đặt ra. Nhằm theo đuổi mục đích là hiệu
quả, cạnh tranh vì cái có lợi, chủ nghĩa thực dụng đòi hỏi con người phải cực kỳ sáng tạo.
Đó là một phẩm chất vô cùng quan trọng trong thời đại mới. Sự sáng tạo ngày nay đòi hỏi
123
Bùi Thị Tỉnh
phải mang tính chất trí tuệ, khoa học chứ không còn là sáng tạo theo kinh nghiệm, truyền
thống; sáng tạo tri thức đa dạng phong phú trên mọi lĩnh vực mà con người cần đến, do đó
sáng tạo còn mang tính triệt để, đi đến tận cùng để đạt mục đích; sáng tạo còn mang tính
liên tục, nhanh nhạy để tạo ra những đột biến có tính chất đòn bẩy, bước ngoặt góp phần
thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Có thể nói, nhờ tinh thần thực tiễn, hiệu quả của chủ
nghĩa thực dụng mà sự sáng tạo của con người Việt Nam ngày càng được phát huy mạnh
mẽ. Cũng với ý nghĩa đó, một cách gián tiếp, chủ nghĩa thực dụng còn khuyến khích cái
cá nhân, cái bản ngã của con người mà trước đây dường như đã bị lãng quên. Con người
thực dụng phải có tính tự chủ, có niềm tin, tự chịu trách nhiệm trước hành động của mình.
Để tìm kiếm lợi ích, con người phải chịu trách nhiệm cá nhân, phát huy tối đa khả năng
của mình để chứng tỏ rằng mình là nhân tố trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển. Nhờ đặc điểm này mà nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu, rất
nhiều doanh nhân thành đạt, nhiều sản phẩm kinh tế thương mại của Việt Nam đã khẳng
định được thương hiệu của mình trên thị trường thế giới. Chủ thể của những doanh nghiệp
đó là những con người vô cùng năng động, sáng tạo, chủ động nắm bắt mọi cơ hội để làm
giàu một cách chính đáng cho bản thân, cho xã hội. Trong kinh doanh, làm ăn, các chủ thể
luôn tính đến những vấn đề thực tế, lợi ích thiết thực cho cuộc sống, làm cho đồng vốn bỏ
ra được sinh sôi nảy nở. Sự viển vông, thiếu thực tế trong làm ăn, sáng tạo giờ đây là điều
hết sức xa lạ với từng cá nhân, từng chủ thể kinh tế. Bởi vậy, tâm lý thực tế, thực dụng đã
trở thành thói quen giúp con người giải quyết những nhu cầu thiết thực trong cuộc sống,
giảm đi những thất bại, mất mát và nghèo đói. Mặc dù vậy, nếu cực đoan hóa, thì như là
một tất yếu, chủ nghĩa thực dụng sẽ bộc lộ mặt trái, tiêu cực là điều không tránh khỏi.
2.3.2. Về mặt tiêu cực
Với động lực là lợi ích cá nhân, cũng như cơ chế thị trường, chủ nghĩa thực dụng có
nguy cơ thúc đẩy con người chạy theo đồng tiền, lợi ích vật chất một cách vô điều kiện,
làm nảy sinh lối sống vị kỉ, cá nhân chủ nghĩa, đưa đến sự mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân
và lợi ích xã hội, giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Người ta có thể làm mọi cách để
đạt được lợi ích cá nhân mà không cần tính đến việc nó có phù hợp, hài hòa với lợi ích xã
hội hay không.
Có thể nói, với sự tác động của cơ chế thị trường, tư tưởng thực dụng được đẩy lên
cực đoan, hiện tượng sùng bái đồng tiền và vật chất trở nên phổ biến trong hầu hết các
quan hệ xã hội. Đồng tiền giờ đây không chỉ là phương tiện phục vụ cuộc sống, phục vụ
con người mà nó còn có nguy cơ biến con người thành kẻ lệ thuộc và làm nô lệ cho nó.
Con người làm ra đồng tiền rồi lại trao cho nó cái sức mạnh có thể làm băng hoại mọi giá
trị đạo đức và chất chứa tội ác. Coi việc kiếm tiền là mục đích cao nhất, nhiều người đã
không loại trừ bất cứ thủ đoạn nào và bất chấp sự chi phối của các chuẩn mực đạo đức,
dư luận xã hội và lương tâm. Hàng ngày, hàng giờ, báo chí đã đưa rất nhiều những thông
tin, những vụ án kinh hoàng, những “cuộc chiến” đẫm máu vì tiền gây chấn động tâm lý
cả xã hội.
Tư tưởng, lối sống thực dụng tầm thường còn thể hiện rất rõ ở một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Để đạt được lợi ích vật chất hoặc tinh thần, một số quan chức đã thực hiện mua
124
Tư tưởng thực dụng của người Việt Nam
bán, trao đổi chức quyền như một món hàng hóa. Tình trạng tham ô, tham nhũng được
cảnh báo ở mức quốc nạn, song, dường như nó vẫn gia tăng dưới nhiều hình thức tinh vi
và diễn biến ngày càng phức tạp. Lợi dụng chức vụ, một số cán bộ lãnh đạo có thẩm quyền
đã đục khoét, chia chác tài sản của nhân dân trong việc phê duyệt dự án, cấp kinh phí đầu
tư... Tận dụng triệt để mọi cơ hội, kiếm tiền phi pháp một cách dễ dàng, nhiều cán bộ có
lối sống buông thả, sa đọa. Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, để có lợi nhuận cao trong
một thời gian ngắn, tình trạng làm hàng giả, hàng nhái tràn ngập thị trường không chỉ gây
tâm lý hoang mang, bất an cho người tiêu dùng mà còn là những hậu quả thật tai hại, thậm
chí nguy hiểm cho cả tính mạng của con người.
Không chỉ ở tầng lớp lãnh đạo hay giới kinh doanh, mà ngay cả trong lĩnh vực giáo
dục, tư tưởng thực dụng đó cũng có cơ hội nảy nở, phát triển. Hiện tượng chạy điểm, chạy
bằng cấp diễn ra ở nhiều cấp học, ngành học, từ thành thị đến nông thôn. Môi trường giáo
dục đang bị thương mại hóa ở nhiều khía cạnh. Một bộ phận thầy cô giáo đã “vì lợi” cho
riêng mình mà quên đi nhiệm vụ, trách nhiệm và lương tâm trong sáng của nhà giáo. Quan
hệ thầy trò mất đi sự thiêng liêng, cao quí như nó vốn từng có. Đối với ngành y, thật đau
lòng khi đạo đức nghề nghiệp cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Khẩu hiệu “cứư người như
cứu hỏa” giờ đây hình như không còn giá trị lay động lương tâm người thầy thuốc, mà
thay vào đó là hấp lực của đồng tiền. Thực tế cho thấy, có những bác sĩ chỉ vì một món lợi
nhỏ mà đã làm ngơ với sự sống quí giá của một con người...
Trên đây là bức tranh khái quát về tư tưởng thực dụng trong đời sống xã hội ở nước
ta hiện nay. Những hiện tượng tiêu cực nói trên là biểu hiện của sự xem nhẹ, phá bỏ đi
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, làm băng hoại giá trị văn hóa, tinh thần, làm cho
con người đi theo những giá trị vật chất tầm thường, trước mắt. Điều này làm ảnh hưởng
đến mục tiêu phát triển bền vững mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra.
Có thể nói, xuyên suốt trong lịch sử tư tưởng của người Việt Nam là tinh thần thực
dụng, tính thiết thực, hiệu quả. Song ở mỗi giai đoạn khác nhau, tinh thần ấy có những
biểu hiện phong phú và xét đến cùng, nó được hình thành một cách trực tiếp, tự phát nhằm
đáp ứng những nhu cầu thiết thân hàng ngày của con người như vấn đề cơm áo, gạo tiền,
vấn đề cái ăn, cái mặc...Từ khi đế quốc Mĩ xâm lược, tư tưởng thực dụng của một bộ phận
người Việt Nam bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực nhằm phục vụ cho mục đích xâm
lược của đế quốc Mĩ. Từ sau đổi mới cho đến nay, cơ chế kinh tế thị trường với mục đích
theo đuổi là lợi nhuận đã góp phần chi phối lối sống thực dụng của người Việt Nam ở cả
hai mặt tích cực và hạn chế. Mặt tích cực là động lực thúc đẩy, mặt tiêu cực là lực cản sự
phát triển của xã hội. Để xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta cần phải khai thác mặt tích cực đồng thời hạn chế mặt
tiêu cực, tư tưởng thực dụng tầm thường nhằm đưa đất nước ta phát triển toàn diện, bền
vững.
3. Kết luận
Tư tưởng thực dụng đã từng tồn tại và có sự thay đổi trong đời sống xã hội ở nước ta
với những hình thức và mức độ biểu hiện khác nhau. Mặc dù có sự xâm nhập, ảnh hưởng
125
Bùi Thị Tỉnh
của chủ nghĩa thực dụng Mĩ nhưng tư tưởng thực dụng ở Việt Nam không phải tồn tại dưới
dạng học thuyết, lý thuyết trừu tượng mà nó tồn tại rất cụ thể, gắn với điều kiện sinh sống
của con người Việt Nam. Trong thực tế, không ai tự nhận mình là người theo chủ nghĩa
thực dụng nhưng ở mỗi ai đó đều có tinh thần thực dụng rất đặc thù kiểu Việt Nam. Vấn
đề nhận diện những điểm tích cực của chủ nghĩa thực dụng để phát huy và hạn chế mặt
tiêu cực là một việc cần phải được làm rõ.
Để phát huy mặt giá trị, tích cực đồng thời hạn chế mặt trái, mặt tiêu cực của lối
sống thực dụng, thiết nghĩ Nhà nước và các cơ quan quản lý vĩ mô cần phải kịp thời xem
xét và có biện pháp đủ mạnh để định hướng dư luận xã hội, ngăn chặn những tác động tiêu
cực như hiện tượng bất chấp chuẩn mực đạo đức, luân lý, giá trị nhân văn truyền thống,
chà đạp lên nhân phẩm, danh dự và lợi ích chính đáng của người khác vì lợi ích của bản
thân. Phát huy mặt tích cực của chủ nghĩa thực dụng để mỗi cá nhân đều có quyền tự do
lựa chọn con đường, cách thức hành động tạo ra hiệu quả nhanh nhất, đem lại giá trị hữu
ích cho mình và cho cả xã hội trong khuôn khổ thể chế chính trị quốc gia và tính nhân văn
dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của đất nước trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Đăng Duy, Nguyễn tiến Dũng, 2005. Lịch sử triết học phương Tây hiện đại. Nxb
Tổng hợp, Tp Hồ Chí Minh.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3] Lưu Phóng Đồng, 1994. Triết học phương Tây hiện đại, tập 2. Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
[4] Nguyễn Lân, 2000. Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Nxb Tp Hồ Chí Minh.
[5] 1993. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, tập 23. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
ABSTRACT
Pragmatic thinking in Vietnamese culture
Pragmatic thinking in Vietnamese culture is an aspect of social consciousness. By
making use of pragmatism, rather than superstitious beliefs and inexplicable tradition,
people can better meet their physical needs. While pragmatic thought is manifested in
different ways, the extent of its existence and practice reflects the attitude of the population
regarding their personal needs. There has been a rather recent introduction of market
mechanisms in Vietnam and the concurrent forms of pragmatism that have accompanied
these market changes have both positive and negative manifestations. Determining the
extent to which pragmatic thinking is practiced among the Vietnamese, and placing a
value on this pragmatism, will promote theoretical thinking and indirectly contribute to
the development of the nation.
126