Từ việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản, suy nghĩ về việc dạy và học văn học Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Việc dịch các tác phẩm văn học Nhật Bản ở Việt Nam từ năm 1950 cho tới nay đã có sự phát triển vượt bậc. Nếu trước đây, việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản phải thông qua ngoại ngữ khác như tiếng Anh, Pháp, Trung thì ngày nay số lượng các tác phẩm văn học Nhật Bản được dịch từ nguyên gốc tiếng Nhật ngày một nhiều, song việc đánh giá chất lượng các bản dịch hầu như chưa được chú ý đúng mức. Các nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học dịch nước ta tuy đã bàn nhiều đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của lý luận, phê bình văn học, nhưng cũng chưa đưa ra được khung phương pháp luận cho vấn đề dịch thuật và đánh giá chất lượng bản dịch. Từ việc so sánh bản dịch tiểu thuyết Nỗi lòng, với bản gốc tiếng Nhật tác phẩm Kokoro của nhà văn Natsume Soseki, trên cơ sở vận dụng lý thuyết phiên dịch của một số nhà nghiên cứu văn học phiên dịch trong nước và trên thế giới, tác giả bài viết đã đi sâu phân tích các trường hợp sai lệch so với bản gốc và phương án sửa chữa từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, mục đích của tác giả bài viết không chỉ dừng ở việc nêu ra và sửa chữa những lỗi sai trong tác phẩm dịch, mà còn hy vọng từ việc so sánh này cần suy nghĩ và thảo luận để làm sao có nhiều tác phẩm dịch có chất lượng, đóng góp về cả nghệ thuật và ngôn ngữ tiếng Việt, từ đó đề ra chiến lược giảng dạy và học tập môn văn học Nhật Bản ở các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Qua bài viết của các tác giả vừa là nhà nghiên cứu Nhật Bản, vừa là giảng viên của các trường đại học, chúng ta có thể thấy rõ hơn tình hình giảng dạy và nghiên cứu văn học Nhật Bản ở một số trường đại học của Việt Nam hiện nay. Ngoài những biện pháp để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo nhân lực nhằm phát triển đội ngũ các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản, cũng cần thiết phải xây dựng một chiến lược lâu dài cho việc đào tạo nhân lực nghiên cứu, giảng dạy và dịch văn học Nhật Bản. Hy vọng trong tương lai không xa sẽ có nhiều dịch giả đồng thời là nhà giảng dạy, nghiên cứu văn học Nhật Bản xuất sắc và sản phẩm dịch của họ chắc chắn sẽ đáp ứng được đòi hỏi của công chúng và các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản tại Việt Nam, góp phần tăng cường sự hiểu biết, giao lưu, hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản

pdf15 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản, suy nghĩ về việc dạy và học văn học Nhật Bản ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 209 TỪ VIỆC DỊCH TÁC PHẨM VĂN HỌC NHẬT BẢN, SUY NGHĨ VỀ VIỆC DẠY VÀ HỌC VĂN HỌC NHẬT BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyn Th Oanh Viện Nghiên cứu Hán Nôm Tóm t t: Việc dịch các tác phẩm văn học Nhật Bản ở Việt Nam từ năm 1950 cho tới nay đã có sự phát triển vượt bậc. Nếu trước đây, việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản phải thông qua ngoại ngữ khác như tiếng Anh, Pháp, Trung thì ngày nay số lượng các tác phẩm văn học Nhật Bản được dịch từ nguyên gốc tiếng Nhật ngày một nhiều, song việc đánh giá chất lượng các bản dịch hầu như chưa được chú ý đúng mức. Các nhà nghiên cứu lí luận phê bình văn học dịch nước ta tuy đã bàn nhiều đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của lý luận, phê bình văn học, nhưng cũng chưa đưa ra được khung phương pháp luận cho vấn đề dịch thuật và đánh giá chất lượng bản dịch. Từ việc so sánh bản dịch tiểu thuyết Nỗi lòng, với bản gốc tiếng Nhật tác phẩm Kokoro của nhà văn Natsume Soseki, trên cơ sở vận dụng lý thuyết phiên dịch của một số nhà nghiên cứu văn học phiên dịch trong nước và trên thế giới, tác giả bài viết đã đi sâu phân tích các trường hợp sai lệch so với bản gốc và phương án sửa chữa từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, mục đích của tác giả bài viết không chỉ dừng ở việc nêu ra và sửa chữa những lỗi sai trong tác phẩm dịch, mà còn hy vọng từ việc so sánh này cần suy nghĩ và thảo luận để làm sao có nhiều tác phẩm dịch có chất lượng, đóng góp về cả nghệ thuật và ngôn ngữ tiếng Việt, từ đó đề ra chiến lược giảng dạy và học tập môn văn học Nhật Bản ở các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Qua bài viết của các tác giả vừa là nhà nghiên cứu Nhật Bản, vừa là giảng viên của các trường đại học, chúng ta có thể thấy rõ hơn tình hình giảng dạy và nghiên cứu văn học Nhật Bản ở một số trường đại học của Việt Nam hiện nay. Ngoài những biện pháp để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo nhân lực nhằm phát triển đội ngũ các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản, cũng cần thiết phải xây dựng một chiến lược lâu dài cho việc đào tạo nhân lực nghiên cứu, giảng dạy và dịch văn học Nhật Bản. Hy vọng trong tương lai không xa sẽ có nhiều dịch giả đồng thời là nhà giảng dạy, nghiên cứu văn học Nhật Bản xuất sắc và sản phẩm dịch của họ chắc chắn sẽ đáp ứng được đòi hỏi của công chúng và các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học Nhật Bản tại Việt Nam, góp phần tăng cường sự hiểu biết, giao lưu, hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Abstract: Since 1950 up to now, the translation of Japanese literary works in Vietnam has been remarkably developing. While in the past, the translation of Japanese literary works into Vietnamese must apply another bridging language such as English, French or Chinese, the number of Japanese literary works which are translated directly from the source language is increasing. However, the translation quality is still not appropriately assessed. Despite numerous discussion on improving the quality and effectiveness of literary criticism theories, the researchers and criticizers in this field can still not set up a legal framework for translation and assessment of the translation quality. By comparing the translation of the novel “Noi long” to its original in Japanese named Kokoro by the writer Natsume Soseki on the base of applying translation theories of both home and international literary translation researchers, the author focuses on analyzing the errors and differences between the translation and its original and proposing corrections for each error. Not only identifying and correcting the errors of the translation, the author also suppose that it is worth more consideration and discussion to improve the translation quality and contribute both artistic and lingual values to Vietnamese language. By this way, it helps to propose teaching and learning methods of Japanese literature in Vietnamese universities nowadays. Through this article of a Japanese researcher and a university lecturer, we can understand more about the situation of teaching and researching Japanese literature in several universities in Vietnam at present. Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 210 Besides solutions to recovery difficulties and promote the education and labor training in order to develop the force of researchers and lecturers of Japanese literature, it is also important to plan a long term strategy for training a staff of researching, teaching ad translating Japanese literature. It is expected that in the near future, there are more and more persons who are both excellent researchers, lecturers and translators of Japanese literature and their translation works will certainly satisfy the public desires. The researchers and lecturers of Japanese literature in Vietnam will greatly contribute to the mutual understanding, exchange and friendship between Vietnamese and Japanese people. 1. Về hoạt động dịch thuật và phê bình tác phẩm văn học dịch tiếng Nhật Như chúng ta đã biết, từ năm 1950 cho tới nay, cho dù phải thăng trầm qua thời gian, nhưng với 113 đầu sách xuất bản và 45 tác phẩm được dịch trên mạng (chủ yếu là tiểu thuyết) cho thấy sự phát triển vượt bậc của công việc dịch và xuất bản văn học Nhật Bản tại Việt Nam. Nếu trước đây, việc dịch tác phẩm văn học Nhật Bản phải thông qua ngoại ngữ khác như tiếng Anh, Pháp, Trung thì ngày nay số lượng các tác phẩm văn học Nhật Bản được dịch từ nguyên gốc tiếng Nhật ngày một nhiều, ngoài một số dịch giả và nhà nghiên cứu như Nguyễn Thị Oanh dịch Nhật Bản linh dị ký của Keikai (Nxb.Văn học 1999) và sẽ ra tiếp Tập truyện kể xưa nay (Konjyakumonogatarishu) (Nxb. KHXH); Trần Thị Chung Toàn dịch Cái bếp của Yoshimoto Banana (Nxb. Đại học quốc gia, 2000) và Vườn hoa trăm sắc của Fujiwarano Sadaie (Nxb. Thế giới, 2010); Lương Việt Dũng dịch Nhật ký mang thai (Nxb.Văn học, 2009); Giáo sư và công thức toán (Nxb.Hội nhà văn) cùng của Ogawa Yoko; Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường của Yamada Amy (Nxb.Hội nhà văn, 2008); Bùi Thị Loan dịch Cậu ấm ngây thơ (Nxb. Hội nhà văn, 2006) và Tôi là con mèo (Nxb. Hội nhà văn, 2011) của nhà văn nổi tiếng Nhật Bản Natsume Soseki; Hoàng Long dịch: Thất lạc cõi người (NXB HNV & Công ty Nhã Nam, 2011) và Tà dương (2012), và sẽ ra tiếp tiểu thuyết Nữ sinh”. Trong đó có nhiều dịch giả còn trẻ nhưng đã phát lộ khả năng dịch thuật khá tốt các tác phẩm văn học Nhật Bản ra tiếng Việt, như Lương Việt Dũng, Bùi Thị Loan, Hoàng Long Vấn đề dịch thuật văn học Nhật Bản đã được nhiều nhà nghiên cứu đi trước đề cập tới trong một số các công trình và các bài viết liên quan đến tình hình dịch thuật-nghiên cứu-xuất bản văn học Nhật Bản tại Việt Nam và gần đây nhất là Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ III – Nâng cao chất lượng, hiệu quả của lý luận, phê bình văn học”, ngày 4-5/6/2013 tại thị trấn Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã đề cập đến vấn đề dịch thuật bao gồm cả dịch thuật văn học Nhật Bản. Cho đến nay, ngoại trừ tác phẩm Truyện Genji do Nxb. KHXH ấn hành năm 1991 (không đề tên dịch giả) là tác phẩm bị giới nghiên cứu văn học Nhật Bản eo xèo, chê trách là một dịch phẩm không tốt (nhưng chưa có bài phê bình cụ thể nào), còn các tác phẩm dịch khác chưa thấy sự phản hồi của độc giả về trình độ dịch thuật cũng như các vấn đề khác. Cũng có thể nhà phê bình Việt Nam chưa hứng thú với việc phê bình, đánh giá các sách dịch văn học Nhật Bản ở Việt Nam. Hoặc tâm lí e dè, ngại đụng chạm khi phải phê bình cuốn sách dịch nào đó. Bàn về vấn đề văn học dịch nói chung, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Phê bình dịch thuật văn chương đang rất cần thiết nhưng hiện nay chưa được chú ý đúng mức và chưa được chuẩn bị, đầu tư kỹ càng. Tình hình đó làm cho thực trạng dịch văn chương của ta nhiều khi bị gây nhiễu rối loạn không đáng có vì những ý kiến quy chụp, phê phán nặng nề từ những sai khác thông thường thay vì trao đổi, thảo luận trên tinh thần cầu thị cho những bản dịch tốt đem lại cho văn chương Việt Nam những đóng góp cả về nghệ thuật và ngôn ngữ trong tiếng bản ngữ. Phê bình dịch thuật văn chương không chỉ và không hẳn là góp ý, sửa chữa những lỗi sai, mà quan trọng hơn nữa là phân tích, đánh giá, biểu dương những bản dịch tốt, dịch hay, những dịch giả có công lao bắc những nhịp cầu qua các biên giới quốc gia, dân tộc”. Tuy nhiên, làm sao để phê bình dịch thuật văn Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 211 chương không chỉ là sự góp ý, sửa chữa những lỗi sai? Làm sao có thể kích thích các nhà phê bình chú trọng tới tác phẩm? Dịch giả Trịnh Lữ cho rằng, “cần có những bài phê bình dựa trên nền tảng lý thuyết, trên phương diện mang tính xây dựng thì mới khích lệ được công việc này”. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cũng báo động tình trạng sách lý luận phiên dịch hay phê bình dịch thuật văn chương ở nước ta còn quá ít. Cho dù, ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu về phiên dịch học không ít. Có thể người viết bài này chưa biết nhiều về thành tựu của lĩnh vực này, nhưng các cuốn sách như: Phiên dịch nhập môn và Tiêu chuẩn của việc dịch thuật – Cách đọc và cách truyền tải chương trình của Tsujitani Shinichiron; Tìm hiểu các vấn đề phiên dịch của Anthony Pym, người dịch ra tiếng Nhật là Takeda Kayoko; Hay cuốn Đương đại phiên dịch lý luận của GS. Lưu Bật Khánh, trường Đại học Trung văn, Hồng Kong; đều có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng Google. Tuy nhiên, công tác dịch thuật các tác phẩm về lý luận văn học dịch như trên đã nói còn rất ít, nhất là các sách phục vụ cho việc phê bình dịch thuật văn học Nhật Bản, vì thế công việc phê bình dịch thuật hầu như không xuất hiện. Đây là điều đáng suy nghĩ cho vấn đề phê bình dịch thuật văn học Nhật Bản trong tương lai. Tuy chưa có bài viết nào về vấn đề dịch văn học Nhật Bản, nhưng từ ý kiến của các dịch giả các thứ tiếng khác về vấn đề dịch thuật cũng có thể cho thấy phần nào về quan niệm dịch thuật tác phẩm văn học nước ngoài ở Việt Nam. Theo dịch giả Lê Hồng Sâm thì “Người dịch phải xác định cho mình một “độ” nhất định để vừa giữ được tinh thần của tác phẩm gốc mà vẫn giúp bản dịch không quá khó tiếp nhận đối với độc giả trong nước”. Quan niệm về “độ”, dịch giả cho rằng: “cái “độ” đó có thể thay đổi theo thời gian, phù hợp với sự biến chuyển của ngôn ngữ và văn hóa. Ví dụ, người ta sẽ không thể nào sử dụng ngôn ngữ của mấy chục năm về trước để chuyển tải nội dung cho độc giả ngày nay, cũng như, việc dịch thẳng những cụm từ thô, tục – vốn tồn tại rõ rành rành trong bản gốc – hẳn khó chấp nhận trong thế hệ của bà” . Dịch giả Trịnh Lữ khi trích dẫn quan điểm của nhà phê bình George Steiner, cho rằng “dịch thuật là một nghệ thuật có tính chính xác”. Một khi nó là nghệ thuật, nó ắt mang dấu ấn sáng tạo của người dịch. Theo dịch giả, trong văn học, khó tìm đâu một bản dịch đúng. Thay vì đó, ông đặt ra vấn đề dịch theo xu hướng bản xứ hóa hay mang những yếu tố ngoại lai trong tác phẩm tới người đọc nước mình” . Dịch giả Lương Việt Dũng từ kinh nghiệm của việc dịch văn học Nhật Bản cho biết, “ở xứ Phù Tang, người ta thường dịch theo xu hướng bản xứ hóa với những tác phẩm văn học, bằng việc thay đổi tên địa danh, nhân vật cho quen thuộc, giúp độc giả của họ có thể dễ dàng tiếp cận các tác phẩm văn học nước ngoài và điều này có hiệu quả, thể hiện ở lượng tiêu thụ những tác phẩm dịch theo phong cách này tại xứ mặt trời mọc”. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng, “Dịch là sự tiếp biến, thương lượng giữa các nền văn hóa”. Tất nhiên, để sự thương lượng này thỏa đáng nhất và mang lại bản dịch hay, chất lượng cho độc giả thì cần đến tâm, tài của người dịch” . Người viết với tư cách là nhà nghiên cứu đồng thời là dịch giả văn học Nhật Bản rất đồng tình với ý kiến của của nhà phê bình George Steiner, cho rằng “dịch thuật là một nghệ thuật có tính chính xác”. Tuy nhiên cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập về quan điểm dịch thuật. Có người cho rằng chỉ cần dịch ý, dịch tự do, nhưng cũng có người yêu cầu phải dịch sát ý (trực dịch), không được tùy tiện thêm bớt. Ở Việt Nam vào khoảng những năm 1960 do yêu cầu cấp bách cần phổ biến những giá trị tinh thần của cha ông ta trong quá khứ nên công tác dịch thuật Hán Nôm được đẩy mạnh. Tuy không xác lập các khung pháp lí cho công tác dịch thuật nhưng tiêu chí các dịch giả bấy giờ đặt ra là phải “tín và nhã”. “Tín” là chính xác; “nhã” là nghệ thuật. Để đạt đến sự “tín” và “nhã” rất cần khả năng đọc giỏi chữ Hán và khả năng văn học của người dịch thuật. Đối với việc dịch văn học Nhật Bản cũng như vậy, để có bản dịch có chất lượng tốt, ngoài trình độ tiếng Nhật, dịch giả phải có phông văn hóa sâu Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 212 rộng; có khả năng cảm thụ tác phẩm và truyền tải tinh thần của tác phẩm ra tiếng Việt. Nhưng chúng ta đã biết, trong số các tác phẩm văn học Nhật Bản được dịch và xuất bản hiện nay đa phần được dịch từ tiếng Anh, Pháp, Trung. Lẽ đương nhiên, nếu dịch giả văn học Nhật Bản là những người không biết tiếng Nhật, không hiểu biết nhiều về văn hóa Nhật Bản thì khó có thể có bản dịch tốt. Gần đây, nhân được đọc phản biện bài viết Đánh giá chất lượng bản dịch – Khảo sát với bản dịch tiếng Việt tác phẩm “Kokoro” của Natsume Soseki của Bùi Mạnh Hùng (Khoa sau đại học, Trường Đại học Hà Nội) , chúng tôi có dịp đọc đối chiếu lại bản dịch tác phẩm “Nỗi lòng” của nhà văn Natsume Soseki do Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch, Nxb. Sông Thao phát hành vào năm 1971 (chúng tôi gọi là “bản dịch cũ”). Qua so sánh với bản gốc, chúng tôi thấy bản dịch của hai dịch giả mắc khá nhiều lỗi. Có thể chia các lỗi trên thành các loại như sau: Thứ nhất: Dịch chưa chính xác 1/ Dịch chưa chính xác do hiểu nhầm từ. Khảo sát rất ít các trường hợp dịch chưa chính xác, chúng tôi thấy phần lớn đều do dịch giả hiểu nhầm từ dẫn đến dịch sai. Ví dụ ở trường hợp (1), nguyên văn là () có nghĩa là “có lẽ”. Dịch giả dịch nhầm thành “tôi nhớ rõ”. “Tôi nhớ rõ” và “có lẽ’ là hai tổ hợp từ khác nhau, một bên là tổ hợp từ cho thấy sự chính xác của ký ức; một bên là tổ hợp từ cho thấy sự phân vân, phỏng đoán, khẳng định một cách dè dặt về điều trong quá khứ, nghĩ rằng “có thể như thế”. Hoặc trường hợp (10) nhầm từ “nhà xí” ( )thành “nhà tắm” . 2/ Dịch chưa chính xác do chưa hiểu thấu đáo về văn hóa, phong tục Nhật Bản. Nhà nghiên cứu phê bình lí luận ngôn ngữ phiên dịch học người Anh Catford là người đầu tiên đề xướng khái niệm gọi là “phiên dịch ngang bằng giá trị”. Theo Catford mục tiêu chính trong hoạt động phiên dịch là “hãy tìm ra những giá trị giống nhau”. Tuy nhiên để tìm ra “những giá trị giống nhau” cần tìm hiểu ngôn ngữ trên nền văn hóa. Dịch giả Trần Đình Hiến đã nói: “Trước tiên anh phải có sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá của chính dân tộc mình, sau đó cũng phải hiểu biết sâu sắc văn hoá của đất nước có ngôn ngữ mà anh định chuyển ngữ. Bởi, văn học dịch là sự giao lưu giữa hai nền văn hoá chứ không đơn thuần là ngữ nghĩa. Không am hiểu cả hai nền văn hóa thì khó có bản dịch tốt. Sau đó là khả năng Việt hóa ngôn ngữ, văn dịch phải như văn viết bằng tiếng Việt” . Wilhelm von Humboldt, nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Đức Heyman Steinthal (1823-1899) cũng nhấn mạnh hơn đến nghiên cứu ngôn ngữ và cho rằng “nghiên cứu các hình thức của ngôn ngữ có thể cho ta khả năng đạt tới chỗ hiểu thấu tinh thần của dân tộc: "Các dữ kiện của ngôn ngữ minh họa rõ ràng nhất mọi nguyên lý của tâm lý các dân tộc". Khảo sát các trường hợp dịch chưa chính xác do có sự khác biệt về văn hóa, phong tục tập quán, ngoài lí do chưa hiểu thấu đáo về tiếng Nhật, nhiều khả năng dịch giả dịch từ ngôn ngữ khác nên chưa thể “tìm ra những giá trị ngang bằng” trong trường hợp chuyển dịch. Ví dụ ở trường hợp (2), nếu dịch “đi theo để kỳ lưng” thì câu đó sẽ được hiểu là: người mẹ đi theo người cha cùng một lúc vào nhà tắm. Nhưng ý câu lại không phải như vậy, người cha vào nhà tắm, đến khi người mẹ “đi vào kỳ lưng” và “đang kỳ lưng” thì người cha ngất đi, bà liền hô ầm lên gọi người con, đến khi người con chạy vào xem thì thấy người cha “mình trần được mẹ tôi ôm giữ lấy từ phía sau”. Nếu dịch giả chú ý đến văn hóa “ofuro” (nhà tắm) và thói quen “tắm” của người Nhật trong truyền thống ắt sẽ dịch chính xác hơn ở trường hợp này. Chúng ta đã biết, người Nhật rất thích ngâm mình trong các bồn tắm nước nóng tới tận cổ, gọi là suefuro. Đến khoảng đầu thế kỷ XVII, các “suefuro” không phải chỉ là để xông hơi và nước tắm bằng thảo dược mà người ta đã dùng nước giếng để đun lên gọi là suifuro và các suifuro đã trở lên phổ biến trong các gia đình Nhật Bản. Ngoài ra, do yufune (bồn tắm thuyền) rất tốn nước nóng, và cũng chỉ chứa được ít lượng nước nóng không đủ tắm nên người Nhật là dùng thùng gỗ cá nhân. Thông thường thùng cao khoảng 80 cm, Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 213 miệng rộng khoảng 80 cm. Trong phòng tắm, người ta đặt thùng tắm, nơi treo mắc quần áo, bên cạnh thùng tắm còn làm cả chỗ để người khác có thể giúp kỳ cọ. Như vậy trong trường hợp bà mẹ đi kì lưng cho ông bố, khi ông ngất đi, bà mẹ chỉ có thể ôm để ông bố (nguyên văn là “mẹ tôi ôm giữ lấy từ phía sau) để mặt ông không đập xuống nước hoặc va vào miệng thùng tắm. Ông bố không thể “nằm đưỡn người (tức nằm thẳng, cứng đờ) trên tay bà mẹ được”. Catford khi nói đến “những giá trị ngang bằng” cũng nhấn mạnh đến những giá trị giống nhau về văn pháp như từ vựng, cú pháp. Lẽ đương nhiên việc chuyển ngữ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia khó có thể giữ nguyên hoàn toàn những giá trị giống nhau về văn pháp, song nếu giữ được thì đó là phương án tối ưu cho việc phiên dịch (dịch văn bản và dịch miệng). Khảo sát trường hợp thứ (7) từ nguyên gốc là “bên gối”, được dịch là “bên giường” “Bên giường” và “bên gối” đều chỉ địa điểm xẩy ra hành động chăm sóc ân cần của người con khi cha vừa bị ngất, nhưng chúng lại cho chúng ta biết về sự khác nhau trong cuộc sống sinh hoạt ăn ở của người Nhật. Chúng ta đã biết, vào thời cận đại ở Nhật Bản, đối lập với nhà ở kiểu tây là nhà kiểu Nhật, gọi là “zashitsu”. Ở thời Natsume Soseki người Nhật vẫn sống chủ yếu trong các zashitsu (nhà kiểu Nhật), tức nhà gỗ, cửa kéo, không có tường, chỉ ngăn bằng bình phong, rèm và nằm trên sàn chiếu tatami, rất ít nhà dùng giường. Như vậy, từ “zashiki” và “makuramoto” đã cho biết người cha sống trong ngôi nhà truyền thống zashiki của Nhật và nằm trên nệm dải trên sàn chiếu tatami. Vì vậy nếu dịch “ngồi lại bên gối” thì không chỉ dịch chính xác từ gốc cho mà còn cho chúng ta hiểu rõ thêm văn hóa dân tộc Nhật Bản. Thứ hai: dịch suy diễn, thêm vào quá nhiều từ Lối diễn dịch, dịch suy diễn, thêm quá nhiều từ chiếm một tỉ lệ khá lớn 15/36 trường hợp. Thực tế dịch giả có quyền thêm vào để cho câu văn thêm sáng nghĩa. Ví dụ ở trường hợp (3), câu “Tôi đâm nháo đâm nhào chạy vào” được thêm vào sau câu “bỗng dưng gọi tôi giật giọng ầm ĩ cả lên”. Theo chúng tôi sự thêm vào này có thể chấp nhận được. Nếu không thêm vào, độc giả cũng có thể tưởng tượng trong trường hợp đó, người con không thể hành động khác mà sẽ “hốt hoảng, vội vã chạy vào”. Tuy nhiên, chúng ta đã biết Natsume Soseki “thuộc thế hệ những trí thức tinh hoa theo khuynh hướng sáng tạo văn hóa từ cuộc đối đầu phương Đông và phương Tây thời kỳ Minh Trị (1868- 1912), là một trong những chủ soái của trường phái văn chương tâm lý cao sang (Yoyuha – Dư dụ phái) bút chiến với chủ nghĩa tự nhiên (shizenshugi) trên văn đàn Nhật Bả