Tóm tắt
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu là một tục thờ dân gian của người Hoa Nam được truyền vào đất Nam
Bộ từ thế kỷ XVII - XVIII theo bước chân của lưu dân Hoa Nam. Theo thời gian, tín ngưỡng này bén rễ
tại Nam Bộ với 74 miếu thờ ở vùng Tây Nam Bộ và 58 miếu thờ ở Đông Nam Bộ. Với tính cách mở -
thoáng và linh hoạt trong tiếp nhận văn hóa trên nền tảng dung hòa đa văn hóa của vùng văn hóa
Tây Nam Bộ, người Việt đã chủ động tiếp nhận và thực hành tục thờ Thiên Hậu theo cách riêng của
mình. Tìm hiểu bản chất, giá trị của tục thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ, nghiên cứu
này đã phát hiện rằng người Việt chỉ tiếp nhận một phần biểu tượng Thiên Hậu chứ không phải toàn
bộ hệ thống ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng cũng như tục thờ biểu tượng này.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 409 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tục thờ và miếu thờ thiên hậu của người việt vùng Tây Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TỤC THỜ VÀ MIẾU THỜ THIÊN HẬU CỦA NGƯỜI VIỆT
VÙNG TÂY NAM BỘ
NGUYỄN NGỌC THƠ
Tóm tắt
Tín ngưỡng thờ Thiên Hậu là một tục thờ dân gian của người Hoa Nam được truyền vào đất Nam
Bộ từ thế kỷ XVII - XVIII theo bước chân của lưu dân Hoa Nam. Theo thời gian, tín ngưỡng này bén rễ
tại Nam Bộ với 74 miếu thờ ở vùng Tây Nam Bộ và 58 miếu thờ ở Đông Nam Bộ. Với tính cách mở -
thoáng và linh hoạt trong tiếp nhận văn hóa trên nền tảng dung hòa đa văn hóa của vùng văn hóa
Tây Nam Bộ, người Việt đã chủ động tiếp nhận và thực hành tục thờ Thiên Hậu theo cách riêng của
mình. Tìm hiểu bản chất, giá trị của tục thờ Thiên Hậu của người Việt vùng Tây Nam Bộ, nghiên cứu
này đã phát hiện rằng người Việt chỉ tiếp nhận một phần biểu tượng Thiên Hậu chứ không phải toàn
bộ hệ thống ý nghĩa biểu trưng của biểu tượng cũng như tục thờ biểu tượng này.
Từ khóa: Tục thờ, miếu thờ, Thiên Hậu, người Việt, Tây Nam Bộ
Abstract
Tian Hou cult is a popular religion of Southern Chinese which has been transmitted into Southern
Vietnam since 17th - 18th centuries with the Southern Chinese immigration. Gradually, this religion has
rooted deeply in Southern Vietnam with 74 temples in the Southwestern of Vietnam and 58 others
in Southeastern of Vietnam. Being open-minded and flexible in absorbing culture on the basis of
multi-cultural harmonization of the Southwestern culture, Vietnamese people actively receive and
practice Tian Hou cult by their own way. By studying the nature and value of Tian Hou worship of
the Vietnamese in the Southwest, this study found that the Vietnamese only received part of the Tian
Hou symbol, not the whole system of meaning of the symbol as well as worshiping this symbol.
Keywords: The cult, temple, Tian Hou, Vietnamese, Southwestern
1. Tục thờ Thiên Hậu vùng Tây Nam Bộ
1.1. Văn hóa Nam Bộ là một bộ phận hữu
cơ của văn hóa Việt Nam. Cao Tự Thanh nhận
định rằng, ngoài yếu tố thân phận lịch sử - xã
hội những người di dân thì yếu tố sản xuất
hàng hóa (nông nghiệp trồng trọt) hết sức
dồi dào và tính đa dạng văn hóa tộc người ở
Nam Bộ là các động lực chính làm cho Nho
giáo ở vùng này trở nên “Nho nhưng không
phải Nho, không phải Nho nhưng Nho”, bám
trụ với thực tiễn lao động, vừa mang cốt cách
tinh thần người Việt vừa thâu nhận và tái tạo
tinh hoa văn hóa của các tộc người khác (13).
Tục thờ nữ thần ở Việt Nam có nguồn gốc
lâu đời, gắn liền với nghề nông nghiệp trồng
lúa nước và lối sống làng xã cộng đồng mẫu
hệ cổ điển ở Đông Nam Á. Người phương Tây
từng nhận định “Đông Nam Á là xứ sở của
mẫu hệ” (14, tr.44), kể cả khi một bộ phận
Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Brunei, v.v.)
đã Hồi giáo hóa thì dấu ấn mẫu hệ vẫn tồn tại
trong từng nếp ăn nếp ở.
Mẫu thần là những nữ thần quan trọng
được nhân dân tôn xưng thành Mẫu qua quá
trình “lên khuôn”, “nâng cao” (17, tr.58) thành
một thứ tín ngưỡng có hệ thống, có quy củ.
“Mẫu là nữ thần, nhưng không phải tất cả nữ
thần đều là Mẫu” (16, tr.59). “Mẫu” ban đầu là
“mẹ”, là nữ thần, song khi “mẹ”, “nữ thần” được
nâng lên thành “mẫu” thì ý nghĩa biểu tượng
của “mẫu” đã được mở rộng thêm. “Mẫu” gắn
liền với sự sinh sôi, với sự bảo vệ, với phúc
lành và sự sống. “Mẫu” là những người mẹ tổ
tông, những nữ anh hùng dân tộc được thần
thánh hóa, những vị phúc thần, những vị tiên
nữ trong văn hóa dân gian v.v.
Theo Đỗ Thị Hảo và Mai Ngọc Chúc, ở Việt
Nam có ít nhất 75 vị nữ thần tiêu biểu, trong
đó có 27 vị gốc thuần Việt (6, tr.52). Phổ biến
nhất có thể kể đến Mẫu Sơn ở trung du và
Số 25 - Tháng 9 - 20186
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
miền núi phía bắc, bà Chúa Kho ở Bắc Ninh,
Hai Bà Trưng, bộ ba Tam phủ và bộ tứ Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện ở đồng
bằng Bắc Bộ, Thánh Mẫu Liễu Hạnh và hàng
chục nữ thần khác ở xứ Thành Nam, bà Chúa
Ngọc ở Huế, Thiên Yana Poh Nagar ở Nha
Trang, Linh Sơn Thánh Mẫu, Ngũ hành nương
nương, bà Chúa Xứ, bà Thiên Hậu, bà Hỏa ở
Nam Bộ v.v...
Một số Mẫu thần ở Việt Nam có nguồn gốc
từ khu vực và thế giới, được tiếp nhận thông
qua những cuộc di dân hay qua giao lưu, tiếp
biến văn hóa. Trong số đó có thể kể bà Thiên
Hậu, bà Chúa Thai Sanh (Kim Hoa nương
nương), Diêu Trì Kim Mẫu, Tây Vương Thánh
Mẫu (gốc Trung Hoa), mẫu Mariamman1 (gốc
Ấn Độ) v.v. Trong số các thánh mẫu ấy, bà
Thiên Hậu được khá đông đảo người dân Việt,
Hoa, Khmer sùng bái.
1.2. Thiên Hậu là mẫu thần cộng đồng
hình thành từ vùng Bồ Điền, Phúc Kiến, sau
mở rộng khắp vùng duyên hải Hoa Nam, Đài
Loan, hạ lưu sông Trường Giang và lan rộng
khắp thế giới với khoảng 6.000 miếu thờ. Các
miếu Thiên Hậu được gọi tên dưới nhiều dạng
thức khác nhau như Thiên Hậu cung, Thiên
Hậu miếu, Ma Tổ miếu, Ma Tổ các, Thánh Mẫu
miếu v.v., được coi là nơi gặp gỡ của những
những ước vọng dân gian từ mộc mạc, bình
dị (như an lành, hạnh phúc, tai qua nạn khỏi)
cho đến đậm chất kinh tế như buôn may
bán đắt, giàu sang thịnh vượng của các cộng
đồng cư dân địa phương. Người Đài Loan và
người Hoa ở Đông Nam Á hải đảo (nhất là
nhóm Phúc Kiến) gọi bà là Ma Tổ (2, tr.33);
người Trung Quốc gọi bà là Thiên Hậu hoặc
Thiên Phi; người Hoa ở Việt Nam và người Việt
Nam nói chung gọi bà là Thiên Hậu. Với tên
gọi Thiên Hậu, bà đã trở thành biểu tượng đã
“chuẩn hóa” (standardized), “chính thống hóa”
(orthodoxed) thông qua sắc phong và ghi
nhận của triều đình trung ương (theo quan
điểm của James Watson, 23). Nói cách khác, ở
một chừng mực nhất định, bà là “bàn tay kéo
dài” (quan điểm Daivid Faure, 3) của các bậc
đế vương ở từng xóm làng, từng địa phương
cụ thể có thờ bà.
Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn vùng Tây
Nam Bộ có 74 miếu Thiên Hậu, trong đó có
57 miếu của người Hoa và 17 miếu do người
Việt xây dựng, tổ chức quản lý và sinh hoạt tín
ngưỡng. Tổng số 74 miếu bao gồm: Cần Thơ có
1 miếu, Tiền Giang 2 miếu, Đồng Tháp 1 miếu,
Bến Tre 4 miếu, Vĩnh Long 6 miếu, Long An 3
miếu, Trà Vinh 11 miếu, An Giang 4 miếu, Kiên
Giang 8 miếu, Sóc Trăng 16 miếu, Bạc Liêu 9
miếu và Cà Mau 9 miếu. Có thể thấy dải đất
ven biển từ Trà Vinh xuống bán đảo Cà Mau
là khu vực tập trung đông đảo nhất các cơ sở
thờ tự Thiên Hậu chủ yếu do người Hoa Triều
Châu và người Việt xây dựng và quản lý. Bên
cạnh đó, con đường thương mại xưa qua kênh
Chợ Đệm, sông Mỹ Tho, sông Măng Thít và
hệ thống sông Tiền - sông Hậu cũng là vùng
đất có nhiều miếu thờ Thiên Hậu (Tiền Giang,
Vĩnh Long). Khu vực thứ ba là dải đất ven biển
Tây mà tập trung nhiều nhất là vùng Rạch Giá
và Hà Tiên. Hai tiểu vùng Đồng Tháp Mười và
cánh đồng Hậu Giang là nơi thưa vắng nhất
trong toàn vùng.
1.3. Miếu Thiên Hậu và cộng đồng thờ
Thiên Hậu có mặt ở hầu hết các châu lục của
thế giới, trong đó nhiều nhất là hai khu vực
Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Theo ước tính,
toàn thế giới có khoảng 6.000 miếu thờ với
hơn 200 triệu tín đồ thuộc các cấp độ khác
nhau. Thế nhưng, dù ở Đông Á, Bắc Mỹ, Châu
Âu hay Châu Phi, đối tượng tín đồ luôn là
người Hoa hay người gốc Hoa, các dân tộc
khác nếu có cũng chỉ là thành phần tham dự
một vài hoạt động lễ hội theo tâm thức học
hỏi, giao lưu văn hoá hay do hiếu kỳ. Qua khảo
sát thư tịch và khảo sát điền dã ở hầu hết các
quốc gia Đông Á, chúng tôi nhận thấy điều
này là chính xác. Ngay tại Los Angeles, nơi có
một miếu Thiên Hậu được treo bảng tên cả
bằng chữ Việt lẫn chữ Hán thì ngôi miếu này
vẫn là miếu Hoa, do người Hoa từ Việt Nam
di dân sang xây dựng và quản lý. Từ Phnom
Penh, Bangkok, Kuala Lumpur, Singapore cho
đến Jakarta, Manila, tục thờ Thiên Hậu đã hiện
diện cùng với cộng đồng người Hoa từ hàng
trăm năm qua, thế nhưng chưa từng có trường
hợp nào người dân bản địa xây dựng miếu thờ
và tổ chức thực hành tín ngưỡng Thiên Hậu
được ghi nhận. Họ cũng chỉ đơn thuần cùng
tham gia lễ hội với người Hoa, cùng chia sẻ
không gian lễ hội cũng như hưởng thụ không
khí náo nức của các hoạt động văn hoá - văn
nghệ gắn với lễ hội mà thôi.
7Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Với tỷ lệ 23%, con số 17 miếu Thiên Hậu do
người Việt xây dựng và tổ chức quản lý ở vùng
Tây Nam Bộ phải chăng là một sự ngoại lệ vô
tiền khoáng hậu? Rõ ràng bà Thiên Hậu được
giới thiệu ra khắp thế giới, nơi các cộng đồng
bản địa chỉ dừng lại ở mức tiếp xúc chứ chưa
thật sự được tiếp nhận vào dòng văn hoá bản
địa, vậy tại sao bà lại có chỗ đứng nhất định
trong tâm thức một bộ phận người Việt? Nếu
cho hệ tư tưởng tam giáo đồng nguyên từ
trong truyền thống là một nền tảng văn hóa cơ
bản đưa các dân tộc chia sẻ cùng hệ tư tưởng
ấy đến gần nhau hơn, vậy tại sao ở Hàn Quốc
và Nhật Bản, bà Thiên Hậu chỉ được thờ tự
trong một nhóm nhỏ cư dân gốc Hoa mà thôi
(như Incheon, Mokpo ở Hàn Quốc; Okinawa
ở Nhật Bản)? Chắc chắn rằng việc tiếp nhận
và tổ chức hoạt động tín ngưỡng Thiên Hậu
vùng Tây Nam Bộ chứa đựng những hàm ý
diễn ngôn thú vị cần được phân tích thấu đáo.
Ngay ở Bắc và Trung Bộ, các miếu thờ Thiên
Hậu do người Hoa xây dựng và quản lý, nay
một phần đã “bản địa hóa” cùng với quá trình
hội nhập sâu đậm của cộng đồng này ở địa
phương (Hưng Yên, Nam Định, Huế, Hội An).
Một bộ phận khác vẫn do cộng đồng người
Hoa tổ chức quản lý và sinh hoạt tín ngưỡng,
như ở Quảng Ninh, Hội An, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, Ninh Hòa, Nha Trang, Phan Thiết v.v.
(26). Ở Đông Nam Bộ, tuy vẫn có hiện tượng
người Việt dựng miếu thờ bà Thiên Hậu nhưng
số lượng không nhiều và tính chất không tiêu
biểu như ở vùng Tây Nam Bộ. Trong những
phần nội dung dưới đây chúng tôi đi từ khảo
tả miếu thờ và tục thờ Thiên Hậu của người
Việt ở vùng văn hóa Tây Nam Bộ đến phân
tích, so sánh và suy luận nội dung, đặc điểm
cùng những diễn ngôn văn hóa - xã hội hàm
chứa trong tín ngưỡng này nhằm phần nào
tìm đáp án cho câu hỏi nói trên.
2. Miếu thờ Thiên Hậu của người Việt vùng
Tây Nam Bộ
2.1. Trong dòng chảy văn hóa người Việt,
Tây Nam Bộ là vùng văn hóa “sinh sau đẻ
muộn” so với nhiều vùng đất khác, là nơi hợp
lưu văn hóa các tộc người bản địa và mới đến,
đã “gặp gỡ”, “giao thoa”, “thâu nạp” lẫn nhau
và tái tạo, lên khuôn theo các kiểu thức riêng
của từng cộng đồng tộc người. Với tâm và thế
của dân tộc chủ thể, người Việt đã chủ động
khai phóng tư duy, đón nhận những giá trị
mới theo hướng có thể sử dụng để bổ sung
vào dòng văn hóa của mình vốn đã có phần
sơ bạc sau nhiều thế kỷ di dân qua nhiều vùng
đất với các dạng thức văn hóa khác nhau. Nói
cách khác, quá trình thâu nhận và tái tạo văn
hóa người Việt ở Trung Bộ thời kỳ Đàng Trong
là một bước đệm, bước tập dượt hết sức có ý
nghĩa để người Việt vùng Tây Nam Bộ một lần
nữa “thâu nạp và tái cấu trúc nhiều thực hành
văn hóa - xã hội ở địa phương (xem thêm 18).
Trong hệ thống các bình diện văn hóa xã hội
được người Việt thâu nhận và tái tạo ở Tây
Nam Bộ thì tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật
trình diễn và phương thức sinh kế là các lĩnh
vực phản ánh xu hướng ấy một cách sâu sắc
nhất. Nguồn gốc quan trọng nhất của các hiện
tượng thâu nạp này nằm ở tính chất sơ bạc của
văn hóa sau quá trình di dân, khai khẩn và tính
chủ động của người Việt trong tiếp nhận cái
mới ở địa phương (nhất là các yếu tố văn hoá
Chăm, Hoa và Khmer).
Trong tâm thức người Việt cũng như nhiều
dân tộc khác ở Đông Nam Á và Đông Á (nhất
là ở Hoa Nam), mỗi thần thánh đều có những
“bổn phận”, “chức năng” riêng, trong số đó
nhiều thần thánh vừa mang hàm ý ước vọng
dân gian vừa mang các ý nghĩa biểu tượng do
chính quyền phong kiến trung ương ấn định.
Trong dân gian, các vị thần khác nhau có liên
quan đến các phạm trù, bình diện khác nhau
của đời sống nhân sinh, ví dụ bà Chúa Xứ cai
quản vùng đất, bà Thủy cai quản vùng nước,
Quan Thế Âm Bồ Tát cứu độ chúng sinh, Thiên
Hậu vừa là thần biển (hải thần) vừa là mẫu
thần ban phát phúc lành (phúc thần) v.v., do
vậy các dân tộc trong vùng có xu hướng kết
hợp thờ đa thần với mong mỏi “hễ bất cứ ước
vọng nào cũng có thần linh nghe thấy hết”.
2.2. Có 17 trên tổng số 74 miếu Thiên Hậu
toàn vùng Tây Nam Bộ là do người Việt xây cất
và tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng (Bảng 1).
Ngoài ra, bà Thiên Hậu còn được người Việt
phối thờ ở miếu Bà Chúa Xứ thị xã Tân Châu,
tỉnh An Giang; miếu Bà Thủy ở thị trấn Cái Đôi
Vàm, huyện Phú Tân và miếu Tam Vị thị trấn
Cái Nước, tỉnh Cà Mau; cung Cửu Thiên Chúa
Xứ ở thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu; chùa
Tân Long xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà
Vinh (26; xem thêm 19); miếu Bà Chúa Xứ - Bà
Số 25 - Tháng 9 - 20188
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Mã Châu ở ấp Bãi Bấc, xã Lại Sơn, quần đảo
Nam Du, huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang (22).
Nhìn chung, các miếu (miễu) Thiên Hậu do
người Việt xây dựng hoàn toàn không theo
quy cách kiến trúc của người Hoa mà phảng
phất lối kiến trúc đình, miếu người Việt ở Nam
Bộ, đồng thời chứa đựng ít nhiều dấu ấn của
kiến trúc phương Tây. Về đại thể có thể chia
tổng số 17 miếu ấy thành ba phong cách
chính:
Một là dạng miếu quy mô lớn mang phong
cách kiến trúc đình làng Nam Bộ, bao gồm
miếu Chúa Xứ - Thiên Hậu Hòa Thuận, miếu
Bà Thiên Hậu Vĩnh Bảo (Trà Vinh), Hội quán
Minh Hương thành phố Vĩnh Long, miếu Bà
Thiên Hậu ấp Cá Lóc (Trà Vinh), miếu Thiên
Hậu Huỳnh Kỳ (Sóc Trăng), miếu Thiên Hậu
Cây Bàng và miếu Thiên Hậu Tiệm Tôm (Bến
Tre). Các miếu có cấu trúc không gian lớn, ít có
họa tiết trang trí trên nóc hay mặt tiền miếu so
với miếu Thiên Hậu của người Hoa trong vùng
(ngoại trừ nhóm tứ linh và cá chép); ngược lại
có võ ca, võ quy và cấu trúc bố trí các khán thờ,
bàn thờ khá thống nhất với đình làng người
Việt, bao gồm bàn thờ chính thờ Thiên Hậu,
hai bên có phối thờ tiền - hậu hiền, tả - hữu
ban và các chiến sĩ, thần thánh khác (Ảnh 1, 2).
Hai là dạng miếu pha trộn giữa phong
cách đình làng và kiến trúc nhà ở người Việt
vùng Tây Nam Bộ. Tiêu biểu phải kể đến miếu
Thiên Mậu Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc (An
Giang). Cấu trúc miếu về cơ bản là một căn
nhà một gian hai mái trước sau, mặt tiền có
ba cửa vào theo phong cách thượng song hạ
bản, mái ngói âm dương nâu đỏ, khá đồng
điệu với màu sắc tổng thể của miếu, trên gờ
nóc có trang trí các motip quỳ long và chim
phụng, hàng cột có bao lam hoa văn cung
đình Huế. Nội điện miếu phân thành hai bộ
phận chính, gồm phần không gian sinh hoạt
tín ngưỡng và phần chính điện nằm ở cuối
gian nhà. Ngoài Thiên Hậu được thờ phụng
trên đàn cao phía trên, còn có bàn hương án
thấp phía trước, hai bên có thờ tả - hữu ban
và tiền - hậu vãng. Miếu là nơi sinh hoạt cộng
đồng của người dân Châu Đốc, do vậy mang
Bảng 1. Miếu thờ Thiên Hậu của người Việt ở vùng Tây Nam Bộ
STT Tên miếu Địa chỉ
1 Miếu Thiên Hậu Phường 1, thành phố Tân An, tỉnh Long An
2 Miếu Thiên Hậu Phường 7, thành phố Tân An, tỉnh Long An
3 Miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ Phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
4 Miếu Thiên Hậu Thị trấn Ba Tri, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre
5 Miếu Thiên Hậu Tiệm Tôm Chợ Tiệm Tôm, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre
6 Miếu Thiên Hậu Cây Bàng Huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre
7 Hội quán Minh Hương Thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long
8 Miếu Thiên Hậu Hòa Lộc Chợ Hòa Lộc, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long
9 Miếu Bà Thiên Hậu Xã Vĩnh Bảo, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
10 Miếu Chúa Xứ - Thiên Hậu Xã Hòa Thuận, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh
11 Miếu Bà Thiên Hậu Ấp Cá Lóc, Thị trấn Định An, Trà Cú, tỉnh Trà Vinh
12 Miếu Bà Thiên Hậu Thị trấn Cầu Ngang, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh
13 Miếu Thiên Hậu Huỳnh Kỳ Xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
14 Miễu Bà Thiên Hậu Xã Hòa Đông, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
15 Thiên Hậu Thánh Mẫu Cung Chợ thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
16 Thiên Hậu Cung Xã Vĩnh Mỹ B, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu
17 Miếu Thiên Hậu trong quần
thể Lăng Ông Nam Hải - Miếu
Bà Thiên Hậu
Thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu
9Số 25 - Tháng 9 - 2018
TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
tính chất điển hình của ngôi miếu cộng đồng
(communal temple) (Ảnh 3).
Dạng thứ ba là các miễu, am tự nhỏ khá
phổ biến trong các vùng nông thôn Tây Nam
Bộ, thường chỉ có một gian nhỏ hoặc đôi khi có
thêm nhà tiền tế phía trước dùng làm nơi bái
viếng. Kiến trúc nhóm miếu thứ ba này nhìn
chung khá đơn giản, ngoại trừ miếu Thiên
Hậu phường 1, thành phố Tân An (Long An) và
miếu Thiên Hậu chợ Bạc Liêu (Bạc Liêu) có hoa
văn trang trí trên bao lam, cột trụ. Miếu Thiên
Hậu thị trấn Ba Tri (Bến Tre) gắn liền với chùa
Long Đức3. Các ngôi miếu này đa phần mang
tính chất gia miếu, dù rằng vẫn có Ban quản
lý, được hợp thành từ người dân địa phương,
song tính chất khá lỏng lẻo (Ảnh 4).
Tượng Thiên Hậu của người Việt nhìn
chung có hai phong cách chính. Thứ nhất là
phong cách Việt, bà Thiên Hậu được thể hiện
trong hình dáng của vị mẫu thần từ bi, phúc
hậu, hoặc luống tuổi, hoặc trẻ trung, đầu đội
mão chim phụng và các hoa văn trang trí
khác, hoàn toàn mang tính chất dân gian Việt.
Phong cách thứ hai thể hiện theo kiểu chính
thống “chuẩn hóa”, bà là một vị “hoàng hậu
thiên đình”, đầu có đội mão kiểu các hoàng
đế Trung Hoa (phong cách nhà Minh là chính
yếu). Nhóm tượng thứ hai này thường do Ban
quản trị miếu (miễu) đặt thỉnh từ Trung Quốc
hay từ cộng đồng người Hoa trong vùng về
thờ (Ảnh 5, 6).
Các tượng thần phối thờ tương đối đa
dạng, từ Khổng Tử, Lão Tử cho đến các thần
thánh dân gian như Quan Công, Quan Âm, Địa
Mẫu, bà Chúa Xứ, 12 bà mụ, tả - hữu ban, tiền
- hậu vãng v.v. Cấu trúc các đối tượng thờ và
phối thờ thể hiện sự pha trộn tam giáo Nho,
Phật, Đạo cùng tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian
- một nét bản sắc văn hóa dân gian người Việt
xuyên suốt Bắc - Trung - Nam.
Hội họa và điêu khắc trang trí trên các
miếu Thiên Hậu của người Việt tương đối đơn
giản, chủ yếu xoay quanh nhóm tứ linh, hổ và
cá chép - một đặc trưng chung của các đình,
Ảnh 1. Miếu Thiên Hậu Vĩnh Bảo, Ảnh 2. Miếu Thiên Hậu ấp Cá Lóc, TT. Đại An,
Châu Thành, Trà Vinh2 Trà Cú, Trà Vinh
Ảnh 3. Miếu Thiên Hậu Vĩnh Mỹ, Tp. Châu Đốc, An Giang
Ảnh 4. Miếu Thiên Hậu xã Vĩnh Mỹ B, Hòa Bình, Bạc Liêu
Số 25 - Tháng 9 - 201810
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
miếu của người Việt ở Nam Bộ. Motip thường
thấy là lưỡng long tranh châu, song phụng
triều nhật, long phụng hòa minh, thanh long
- bạch hổ, ô quy - bạch hạc v.v. Nhìn dưới góc
độ mỹ thuật, các họa tiết mang phong cách
khá bình dị, bút pháp mộc mạc, cách phối
màu chủ yếu theo nguyên tắc đa sắc phối
hợp, trong đó nhiều nhất là ba màu đỏ, xanh,
vàng (theo ngũ hành). Dù là miếu (miễu) bà
với các sinh hoạt tín ngưỡng tự do linh hoạt
song phong cách kiến trúc và mỹ thuật về cơ
bản là theo điển chế nhà Nguyễn (1802-1945),
nhưng ở mức độ sơ bạc nhất (Ảnh 7).
3. Đặc điểm tục thờ và miếu thờ Thiên Hậu
của người Việt vùng Tây Nam Bộ
Để thảo luận phần nội dung này, chúng
tôi áp dụng mô hình Tam vị của Pierce để
nhấn mạnh mối quan hệ tương tác giữa biểu
tượng (symbol) hay kí hiệu (sign) với trường
ý nghĩa của biểu tượng (signified) trong bối
cảnh văn hóa của từng
nhóm cộng đồng khách
thể cụ thể (tham khảo
5). Cùng với lớp ý nghĩa
“chuẩn hóa” do các triều
đại phong kiến “sắc
phong” và “gia phong”
(superscribed, theo quan
điểm của Duara) (1) cho
(tính tôn ti trật tự, tính
điển chế, tính gắn kết
nhà nước với cộng đồng
địa phương, hệ giá trị
Nho giáo v.v.), bà Thiên
Hậu trong dân gian là
một vị thần biển, thần
ban phát phúc lành, nữ
thần bảo trợ sinh sôi nảy
nở, và một vị “thần tài”.
Hẳn nhiên, c