Tương thông Thiên – Địa – Nhân trong thơ Lý Quý Lan

TÓM TẮT Hệ thống văn học cổ điển Trung Hoa nói chung, kho tàng Đường thi nói riêng không đứng ngoài truyền thống của một nền văn hóa nông nghiệp với kinh nghiệm thuận hòa, nương tựa vào thiên nhiên. Trong hơn 200 nữ sĩ đời Đường, Lý Quý Lan là nhà thơ duy nhất được tôn xưng “Nữ trung thi hào”. Đọc thơ Lý Quý Lan từ mối quan hệ tương thông Thiên – Địa – Nhân, chúng tôi nhận diện con đường sáng tạo của nữ thi nhân như là hành trình sử dụng ngôn ngữ để mở ra mối tương cảm đặc biệt giữa con người và thế giới tự nhiên.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương thông Thiên – Địa – Nhân trong thơ Lý Quý Lan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 21 KHOA HỌC Xà HỘI Đất nước Trung Hoa rộng lớn với chiều sâu văn hóa hàng nghìn năm đã trở thành một trong những cái nôi của văn hóa, văn minh nhân loại� Đặc trưng quan trọng của cái nôi ấy là tính chất nông nghiệp, nông thôn, nơi con người tồn tại hài hòa cùng thế giới tự nhiên� Cũng vì thế, văn học cổ điển Trung Hoa nói chung, kho tàng Đường thi nói riêng xuất hiện không ít bài thơ bộc lộ tình yêu thiên nhiên� Trong hơn 200 nữ sĩ đời Đường, Lý Quý Lan là nhà thơ duy nhất được tôn xưng “Nữ trung thi hào”� Cũng như sáng tác của nhiều thi nhân thời ấy, thơ Lý Quý Lan phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người với tạo vật thiên nhiên� Con đường sáng tạo của nữ thi nhân là hành trình sử dụng ngôn ngữ để mở ra Tương thông THIÊN – ĐỊA – NHÂN trong thơ LÝ QUÝ LAN Đặng Thị BíCh hồng1, Dương Tuấn anh2 1Đại học Hùng Vương, 2Đại học Sư phạm Hà Nội Nhận bài ngày 14/11/2017, Phản biện xong ngày 27/11/2017, Duyệt đăng ngày 28/11/2017 TÓM TẮT Hệ thống văn học cổ điển Trung Hoa nói chung, kho tàng Đường thi nói riêng không đứng ngoài truyền thống của một nền văn hóa nông nghiệp với kinh nghiệm thuận hòa, nương tựa vào thiên nhiên. Trong hơn 200 nữ sĩ đời Đường, Lý Quý Lan là nhà thơ duy nhất được tôn xưng “Nữ trung thi hào”. Đọc thơ Lý Quý Lan từ mối quan hệ tương thông Thiên – Địa – Nhân, chúng tôi nhận diện con đường sáng tạo của nữ thi nhân như là hành trình sử dụng ngôn ngữ để mở ra mối tương cảm đặc biệt giữa con người và thế giới tự nhiên. Từ khóa: Lý Quý Lan, con người, thiên nhiên. mối tương cảm đặc biệt giữa con người và thế giới tự nhiên� Tìm hiểu mối quan hệ tương thông Thiên – Địa – Nhân trong thơ Lý Quý Lan, bài viết này hướng đến nhận diện tâm thế con người trong môi trường tự nhiên với những núi non, cỏ cây, sông nước, bầu trời Cũng từ đó, thơ xác định một thái độ ứng xử, một nguyên tắc chung sống cùng tự nhiên của con người cổ điển Đông phương� 1. Mô hình Thiên – Địa – Nhân trong truyền thống tư tưởng phương Đông Con người Á Đông trong sâu thẳm truyền thống vốn gần gũi với thiên nhiên và nương tựa vào thiên nhiên mà sống� Nhìn lại truyền thống tư tưởng phương Đông, có thể nói, sự 22 Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 KHOA HỌC Xà HỘI coi trọng thiên nhiên trở thành điểm gặp nhau giữa các trường phái tôn giáo, triết học cổ điển� Quan niệm về sự tương thông Thiên – Địa – Nhân trong tư tưởng Nho, Đạo, Phật như một minh chứng của thái độ tôn sùng thiên nhiên, đồng nhất bản thể con người với bản thể tự nhiên� “Thiên nhân hợp nhất” của Nho gia được đánh giá là khái niệm cổ điển nhất trong truyền thống văn hóa Trung Hoa� Vạn vật trong trời đất và con người hợp thành nhất thể, con người là một bộ phận của thế giới tự nhiên� Do vậy, con người phải tuân theo quy luật tự nhiên, nhân tính phải thống nhất với thiên đạo� “Khi ‘trung’ – một trạng thái của ‘tâm’ (tuyệt đối bình lặng trước những tác động bên ngoài) – đi vào mỗi con người và tạo nên được sự thống nhất thiên – địa – nhân, thì đó là lúc ‘hòa’ xuất hiện. Nói cách khác, triết lý Nho giáo khuyến dụ, giữa con người và thiên – địa có một khoảng cách hiện hữu, nhưng bất kể trường hợp nào con người cũng không nên tách mình ra khỏi tự nhiên và không nên tìm hiểu nó một cách lãnh đạm mà cần ‘hòa trộn hài hòa nội tâm vào ngoại cảnh’ – một tiền đề cho việc con người, cả xưa và nay, tham gia vào sự cộng hưởng nội tại của các sinh lực trong tự nhiên là chuyển hóa nội tại của chính mình” [5, tr�454-455]� Tuy nhiên, là một học thuyết đạo đức, Nho giáo khi khẳng định trạng thái tương thông giữa con người và vũ trụ vẫn đặt con người vào vị trí trung tâm� “Để tìm căn cứ lý luận từ thế giới khách quan, người ta đem luân thường đạo lý của con người gán cho vạn vật trong trời đất, biến trời thành hóa thân của đạo đức rồi lại lấy thiên đạo chứng minh cho nhân thế” [1, tr�76]� Giữa con người và vũ trụ tồn tại mối liên hệ tương cảm; và dựa vào khả năng điều chỉnh hành vi của con người, mối liên hệ ấy có thể đạt tới trạng thái cân bằng, thống nhất� Nếu Nho giáo nói tới “Thiên, Nhân hợp nhất” để nhấn mạnh ý thức đạo đức thì Đạo giáo khẳng định “Thiên, Nhân hòa hợp” để theo đuổi sự hài hòa giữa tâm tính con người với thế giới tự nhiên� “Tự nhiên” là cái đích cao nhất mà triết thuyết Đạo gia hướng tới� Đạo đức kinh nhấn mạnh: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên”� Quan điểm này bắt nguồn từ tư tưởng Thiên – Địa – Nhân nhất thể có chung bản nguyên là Khí� Như vậy, trạng thái nhất thể này là thuộc tính của tự nhiên, sự cân bằng là trật tự của tự nhiên� Nguyên tắc xử thế được đề xuất ở đây là “vô vi nhi vô bất vi”, kêu gọi con người trở về với tự nhiên, cảm nhận đạo vô vi của vũ trụ� Và trong thế giới tự nhiên ấy, con người bình đẳng với tất cả các sinh loài khác� Quan niệm về “vô” của Đạo gia “hầu như song hành với quan niệm “tính không” (sunyata) – tầm quan trọng của việc đạt tới trạng thái vô niệm, hư không, giải thoát tâm thức khỏi mọi tri kiến được nhấn mạnh trong nhiều kinh sách Phật giáo” [4, tr�215]� Phật giáo Thiền tông chủ trương tu thân xuất thế� Muốn tham thiền đạt ngộ, điều kiện khách quan là con người phải có một không gian thanh tĩnh� Trời, đất tĩnh lặng, thiên nhiên êm ả là không gian lý tưởng để con người đạt tới trạng thái “tĩnh lự”, “minh tưởng”— trạng thái thống nhất hài hòa giữa con người và khách thể tự nhiên� Như vậy, tam giáo phương Đông có thể đề xuất những quan niệm khác nhau về vị thế của con người trong mối quan hệ với tự nhiên nhưng xét cho cùng, cả Nho, Đạo, Phật đều khẳng định sự tương liên giữa con người và đất trời như là trạng thái sinh tồn lý Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 23 KHOA HỌC Xà HỘI tưởng� Tư tưởng coi trọng thiên nhiên trong truyền thống Á Đông này chi phối cách con người thiết lập một thái độ, một nguyên tắc ứng xử với thế giới tự nhiên� Văn học Á Đông, vì thế, nổi tiếng với những sáng tác ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, khắc họa mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự quấn quýt, giao hòa� Nhìn vào lịch sử gần 300 năm thời đại Đường thi, không thể không kể đến một dòng thơ nổi tiếng lấy cảnh vật nước non làm đề tài ngâm vịnh chủ đạo: dòng thơ sơn thủy điền viên với những tên tuổi lừng danh như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Lưu Trường Khanh, Vi Ứng Vật, Liễu Tông Nguyên��� Xét riêng trong trong bậc nữ thi nhân, Lý Quý Lan “đã vượt khỏi thói tục, tu dưỡng thứ giáo dục thanh tịnh, tâm sự những xúc cảm sâu kín, lưu luyến những cảnh sắc tươi đẹp, tiêu dao với công việc nhàn hạ, luôn nghĩ về những điều trong trẻo như mây trắng nước xanh” [6, tr�111]� Thơ Lý Quý Lan nhìn từ truyền thống tư tưởng phương Đông là một thể nghiệm về sự tương thông Thiên – Địa – Nhân, sự gắn kết hài hòa giữa con người và thế giới tự nhiên� 2. Thiên – Địa hữu linh: bức tranh sinh loài đa diện trong thơ Lý Quý Lan Truyền thống thơ ca cổ điển nhìn vạn vật trong trạng thái tĩnh tại muôn thuở, miêu tả vạn vật với những thuộc tính tự nhiên của bản nguyên thế giới� Những trang thơ điền viên của Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Liễu Tông Nguyên tái hiện vẻ đẹp nguyên sơ, khách quan của thế giới tự nhiên, của những ruộng vườn, đồng bãi, sông núi, suối khe Con người hiện lên trong tâm thế soi ngắm và cảm khái� Cùng chung nguồn mạch tái hiện thế giới tạo vật muôn vẻ ấy, thơ Lý Quý Lan khắc họa diện mạo thiên nhiên với những sinh loài, những cảnh tượng cụ thể: một cảnh trời, một ngọn núi, một cành hoa Tuy nhiên, trong thơ Lý Quý Lan, những cảnh tượng ấy không chỉ là điểm gợi hứng, là nền tảng cho một cảm xúc ký gửi� Thiên nhiên hiện lên trước hết mang những đặc tính tự nhiên vốn có của nó� Đó là một cảnh tượng đăng sơn: Úc úc sơn mộc vinh Miên miên dã hoa phát (Cây trên núi tươi tốt Hoa dại nở miên man) Là một khung cảnh ngày xuân trước khuê phòng: Bách xích tinh lan thượng Sổ chu đào dĩ hồng (Trên thành giếng thẳm sâu Đào rực sắc muôn hoa) Là một không gian phủ ngập bức màn hoa tường vi: Đương không xảo kết linh lung trướng Trứ địa năng phô cẩm tú nhân (Màn hoa khéo kết không trung thắm Đệm gấm trải phơi mặt đất xanh) Miêu tả diện mạo sinh loài, Lý Quý Lan không sử dụng những tính từ gợi sắc màu trung tính, những động từ thể hiện sự tĩnh tại, hoàn kết� Nữ thi nhân đưa vào thơ những từ ngữ cá thể hóa sắc thái của sự vật, cụ thể hóa cảnh tượng� “Mộc” phải “vinh”, “dã hoa” phải “phát”, “đào” phải “hồng”, “tường vi” phải dệt thành “linh lung trướng” Hình ảnh thơ trở thành minh chứng giản dị cho tinh thần “dĩ thiên hợp thiên”, “điêu trác phục phác” của Đạo gia� Vạn vật không đẹp ở sự đẽo gọt, chỉnh sửa, ngay cả khi đó là sự đẽo gọt, chỉnh sửa khéo léo� Vạn vật đẹp ở chính sự chân thực vô vi của nó� 24 Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 KHOA HỌC Xà HỘI Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn nói nhiều hơn về bức tranh sinh loài trong thơ Lý Quý Lan là những câu thơ phóng chiếu cảm giác của chủ thể lên vạn vật� Nó thiết lập một “luật lệ” riêng của thơ Lý Quý Lan trong tương quan truyền thống thơ cổ điển� Nếu như vịnh cảnh trong thơ cổ tạo ấn tượng về bức tranh thiên nhiên với trạng thái tự nhiên cố hữu của nó thì thiên nhiên trong thơ Lý Quý Lan lại phảng phất đời sống tinh thần con người� Tái hiện khung cảnh và tâm thế chia tay đêm trăng sáng, nhà thơ viết: Ly nhân vô ngữ nguyệt vô thanh Minh nguyệt hữu quang nhân hữu tình. Biệt hậu tương tư nhân tự nguyệt Vân gian thủy thượng đáo tằng thành. (Người đi không nói trăng lặng thinh Trăng có ánh vàng người có tình Xa cách người trăng chung nỗi nhớ Chân mây mặt nước đến tầng thành) “Vô thanh” là thuộc tính cố hữu của “nguyệt”, nhưng khi “nguyệt vô thanh” đặt trong thế đối xứng với “ly nhân vô ngữ” thì cái lặng thinh của trăng ấy trở thành một sự đồng vọng hữu thức với tâm trạng con người trong khung cảnh biệt ly� Cũng như thế, “minh nguyệt hữu quang” đối với “nhân hữu tình”� Ánh sáng của trăng không còn thuần túy là một thuộc tính tự nhiên nữa mà nó chuyên chở “tình” trăng, chuyên chở xúc cảm phút chia tay� Cho nên câu thơ đồng nhất “nhân tự nguyệt”, con người và vầng trăng cùng chung nỗi tương tư� Xét cho cùng, đây chính là cách thi nhân thiết lập mối quan hệ giữa con người và vũ trụ� Nhà thơ phóng chiếu cái nhìn chủ quan của mình lên vạn vật� Vạn vật từ đó phát lộ đời sống tinh thần của nó như một sự tương thông, tương hợp với tinh thần con người� Từ cách thức phổ cảm giác chủ thể vào vạn vật như vậy, nữ sĩ nhận ra cây dương liễu cũng thẫn thờ ly biệt, con thuyền cũng cô độc lẻ loi: Tương khán chỉ dương liễu Biệt hận chuyển y y. Vạn lý Giang Tây thủy Cô chu hà xử quy. (Nhìn nhau chỉ liễu rủ Thẫn thờ chia tay nhau Dòng Giang Tây muôn dặm Thuyền lẻ loi về đâu) Lấy con người làm tâm điểm để nhìn ra thế giới, nhà thơ mô tả âm thanh tiếng suối theo chuẩn mực âm thanh tiếng đàn: Thiếp gia bổn trụ Vu Sơn vân Vu Sơn lưu tuyền thường tự văn. Ngọc cầm đàn xuất chuyển liêu huyến Trực thị đương thì mộng lý thính. (Nhà thiếp trong mây Vu Sơn Vẫn nghe tiếng suối chảy dồn nơi đây Mênh mang đàn ngọc tiếng bay Khác chi tiếng nhạc đong đầy miên man) Rõ ràng, thiên nhiên trong thơ Lý Quý Lan không phải là một trạng thái hóa sinh đã hoàn tất mà là một quá trình hóa sinh đang diễn tiến� Nó không tĩnh tại, không bất biến mà ngược lại, ẩn tàng sinh khí, mang chứa niềm giao cảm của thế giới con người� 3. Nhân tâm đối cảnh: nhận diện thế giới quan trong thơ Lý Quý Lan Trong thơ ca cổ điển Trung Hoa nói chung và thơ Đường nói riêng, mô hình thơ không đơn thuần là mô hình thi luật mà còn là mô hình thế giới quan� Và điểm nổi bật Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 25 KHOA HỌC Xà HỘI nhất của mô hình thế giới quan đó là mô hình tâm – vật: kết cấu bài thơ thường đi theo trình tự từ vật đến tâm hoặc từ tâm đến vật� Thơ “không theo đuổi mô phỏng cảnh vật khách quan như thật, mà ra sức sáng tạo và biểu hiện cái ý cảnh có đặc điểm cá tính, tức là cảm xúc chủ quan của tác giả giao hòa với cảnh vật khách quan mà hình thành nên cảnh giới nghệ thuật – tức cảnh sinh tình, gửi tình vào cảnh và miêu tả cái tình của vạn vật” [2, tr�706]� Thơ Lý Quý Lan nhìn chung đứng ngoài quy định ngặt nghèo của những luật lệ thơ ca cứng nhắc� Trong toàn bộ sự nghiệp thơ của mình, Lý Quý Lan hầu như không sáng tác theo thể luật Đường� Tuy nhiên, những vần thơ tự do phóng khoáng của nữ sĩ về cơ bản không phá vỡ mô hình thế giới quan tâm – vật� Bài thơ có thể mở đầu là một không gian ngoại cảnh, kết lại bằng không gian tâm trạng: Lưu thủy Xương Môn ngoại Cô chu nhật phục tê (tây). Ly tình biến phương thảo Vô xứ bất thê thê. Thiếp mộng kinh Ngô uyển Quân hành đáo Diệm khê. Quy lai trọng tương phóng Mạc học Nguyễn lang mê. (Ngoài Xương Môn nước chảy Thuyền theo ráng về tây Phương thảo nhuốm ly biệt Đâu đâu cũng hương đầy Vườn Ngô thiếp mơ tới Sông Diệm chàng vui vầy Về lại cùng dò xét Chớ học Nguyễn lang say) Cũng có khi bài thơ được cấu trúc theo chiều ngược lại, mở đầu bằng tâm trạng, kết lại bằng cái nhìn ra ngoại cảnh: Tâm viễn phù vân tri bất hoàn Tâm vân tịnh tại hữu vô gian. Cuồng phong hà sự tương diêu đãng Xuy hướng nam san phục bắc san. (Lòng theo mây nổi mãi biệt ly Giữa khoảng có – không đến lại đi Hà cớ cuồng phong xoay chuyển thổi Nam sơn bay tới, Bắc sơn về) Ở đây, điểm nổi bật trong cái nhìn của nhà thơ là sự thống nhất giữa tâm và vật, giữa tiểu ngã và đại ngã� Kết cấu thơ dù đi từ vật đến tâm hay từ tâm đến vật thì giữa tâm và vật đều tồn tại sự hô ứng lẫn nhau, rặng cỏ xanh nhuốm sắc màu ly biệt, tâm tư trôi theo mây trời� Bản thân sự hô ứng tâm – vật ấy tạo ra cho thơ Lý Quý Lan vẻ đẹp của trạng thái điềm tĩnh, của sự giao hòa� Để miêu tả mối quan hệ thân thiết, hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, để gợi thái độ của con người trước thế giới tự nhiên, Lý Quý Lan vận dụng linh hoạt kho ngôn ngữ Đường thi với những con chữ vừa biểu ý, vừa biểu cảm, khi “vọng thủy”, lúc “đăng sơn”, khi “ngưỡng khan minh nguyệt”, lúc “phủ miện lưu ba” Trong thơ Đường nói chung, trạng thái đối cảnh gần như đi liền với sự tương thông, tương cảm giữa nhân tâm và thiên cảnh� Cho nên nhắc tới “đăng cao”, “viễn vọng” cũng tức là nhắc tới “hoài cổ”, “tư hương”, đối diện “minh nguyệt” là gợi nhắc “cố hương” Thơ Lý Quý Lan tái hiện cảnh huống đăng cao như một bối cảnh để giãi bày xúc cảm: Vọng thủy thí đăng sơn Sơn cao hồ hựu khoát. Tương tư vô hiểu tịch Tương vọng kinh niên nguyệt. (Lên núi ngắm nước non Hồ rộng, núi chon von 26 Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 KHOA HỌC Xà HỘI Nhớ nhau quên sớm tối Năm tháng vẫn sắt son) Bài thơ được viết sau buổi Lý Quý Lan chia tay danh sĩ Chu Phóng để Chu Phóng phụng chỉ đi làm quan ở tỉnh Giang Tây� Nỗi “tương tư”, “tương vọng” giữa hai người bạn tâm giao cần đến chiều kích của “sơn cao”, “hồ khoát”� Cũng như thế, trong tình yêu, nữ thi nhân bày tỏ nỗi sầu oán tương tư gắn với không gian của “cao lâu”, của “nguyệt hoa mãn”: Huề cầm thượng cao lâu Lâu hư nguyệt hoa mãn. Đàn trứ tương tư khúc Huyền tràng nhất thì đoạn. (Lầu cao ôm đàn gảy Hoa trăng ngập lầu không Tương tư đàn một khúc Đứt dây lẫn cõi lòng) Trong thời đại Đường thi, các danh sĩ đăng cao để phóng cái nhìn ra xa, để thâu cảm cái mênh mông của không gian, cái vô tận của thời gian� Nữ sĩ họ Lý tái hiện những cảnh huống đăng cao, song tâm thế con người đăng cao lại hướng về những xúc cảm đặc trưng phái tính� Nó làm nên cá tính sáng tạo của thi nhân trong bức tranh nghệ thuật thời Đường� Trước đó mấy trăm năm, Đào Uyên Minh đã đưa thơ về với ruộng vườn quen thuộc như là không gian nương náu bình yên, lánh xa thế thái� Đến phong khí Thịnh Đường, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên khắc họa thiên nhiên trong vẻ đẹp thanh tân, bình dị, quyện hòa đời sống con người để truy tầm trạng thái an nhiên, tự tại, thanh nhàn Thơ Lý Quý Lan trở về với tự nhiên nhưng không phải để ảnh xạ tâm tư nhàn nhã� Thiên nhiên hòa điệu với chiều sâu nội tâm con người song đó là chiều sâu nội tâm của một cái tôi nữ giới – cái tôi phóng khoáng mà đa cảm trong tình bạn, tình đời và trong cả tình yêu� Có thể nói, Thiên – Địa – Nhân hợp nhất là tư tưởng bao trùm trong triết lý phương Đông� Nó quy tụ mọi tư tưởng tôn giáo và tạo nên bản sắc văn học nghệ thuật phương Đông là tình yêu thiên nhiên� Nhìn từ trường hợp thơ Lý Quý Lan, quan điểm tương thông Thiên – Địa – Nhân đã làm nên diện mạo bức tranh sinh loài đa sắc và căng đầy sự sống, đã kiến tạo sự hài hòa nhân tâm thiên cảnh như một nguyên tắc thế giới quan� Thơ Lý Quý Lan, vì thế, góp thêm một tiếng nói khẳng định nguyên tắc ứng xử hài hòa giữa con người với thế giới tự nhiên của thơ Đường nói riêng và thơ ca cổ điển phương Đông nói chung� Tài liệu tham khảo [1] Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý chủ biên (2004), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc� (Lương Duy Thứ dịch)� Nxb VHTT� [2] Đường Đắc Dương chủ biên (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa. (Nguyễn Thị Thu Hiền dịch)� Nxb Hội Nhà văn� [3] Đỗ Văn Hiểu, Văn học sinh thái và lý luận phê bình sinh thái� �dovanhieu� net/2015/08/van-hoc-sinh-thai-va-li-luan- phe-binh�html [4] Michael Jordan (2004), Minh triết Đông phương (Phan Quang Định dịch)� Nxb Mỹ thuật� [5] Trần Hải Yến (2016), “Nghiên cứu, phê bình hiện đại và di sản văn hóa: Nhìn từ cách sinh thái học tìm về Tam giáo”, Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Tập 1� Nxb Khoa học Xã hội� [6] Nhiều tác giả (1995), Đường tài tử truyện toàn thích� NXB Nhân dân Quý Châu� Tạp chí Khoa học & Công nghệ số 4 (9) – 2017 27 KHOA HỌC Xà HỘI SUMMARY The correspondence among Heaven, Earth, and Human in ly quy lan’s poetry Dang Thi BiCh hong1, Duong Tuan anh2 1Hung Vuong University, 2Hanoi National University of Education The classical Chinese literature system in general, Tang treasures in particular, did not stand outside of the tradition of an agricultural culture, with a harmonious experience, relying on nature. Among more than 200 Tang dynasty artists, Ly Quy Lan was the only poet honored as the “Female Poet”. Reading Ly Quy Lan’s poetry from the correspondence among Heaven, Human and Earth, we identify her path of cre- ation as the journey of using language to open up the special relationship between human and the natural world. Keywords: Ly Quy Lan, human, nature. SUMMARY Ho Chi Minh’s heritage on the solution of women in the future of the twenty-year of the 20th century Tran Van hung, Chu Thi Thanh hien Faculty of Social Sciences & Humanities – Hung Vuong University In the twenties of the 20th century, the struggle for women’s rights was a critical issue in the world, besides the struggle for national liberation, against imperialism. To absorb the progressive ideas of Marxism–Leninism and the movement of women’s rights in the world, Nguyen Ai Quoc–Ho Chi Minh made important contributions to the movement. The thought of Nguyen Ai Quoc on women’s liberation during this period is reflected in his writings and actions with the basic contents: Awareness of the situation of women and the world in Vietnam; The role of women; The goal is to fight for women’s liberation and implement “gender equality”. Keywords: women; women’s liberation; gender equality Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ ... (tiếp theo trang 20)
Tài liệu liên quan