Tóm tắt: Mạng được đinh nghĩa bằng phần mềm (SDN) hứa hẹn sẽ biến đổi
mạng cố định hiện nay thành nền tảng dựa trên lập trình với khả năng phân bổ
nguồn lực một cách năng động, trở nên linh hoạt hơn, đủ quy mô để hỗ trợ các
trung tâm dữ liệu khổng lồ với sự ảo hóa cần thiết cho một môi trường điện toán
đám mây tự động hóa cao, năng động, và an toàn. Bài báo này giới thiệu về SWAM,
một hệ thống xây dựng trên các bộ định tuyến Wi-Fi với nhiều giao diện không dây
để cung cấp cơ sở hạ tầng truy cập không dây hỗ trợ đa thuê bao, di động, và truy
cập không dây tích hợp. Nhà cung cấp cơ sở hạ tầng có thể triển khai các nút
SWAM để bao phủ một khu vực địa lý nhất định và bán lại dung lượng này để cung
cấp kết nối theo yêu cầu cho nhà khai thác mạng di động
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 473 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng công nghệ sdn trên Wifi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông tin khoa học công nghệ
Lê Xuân Thành, “Ứng dụng công nghệ SDN trên WiFi.” 196
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SDN TRÊN WIFI
Lê Xuân Thành*
Tóm tắt: Mạng được đinh nghĩa bằng phần mềm (SDN) hứa hẹn sẽ biến đổi
mạng cố định hiện nay thành nền tảng dựa trên lập trình với khả năng phân bổ
nguồn lực một cách năng động, trở nên linh hoạt hơn, đủ quy mô để hỗ trợ các
trung tâm dữ liệu khổng lồ với sự ảo hóa cần thiết cho một môi trường điện toán
đám mây tự động hóa cao, năng động, và an toàn. Bài báo này giới thiệu về SWAM,
một hệ thống xây dựng trên các bộ định tuyến Wi-Fi với nhiều giao diện không dây
để cung cấp cơ sở hạ tầng truy cập không dây hỗ trợ đa thuê bao, di động, và truy
cập không dây tích hợp. Nhà cung cấp cơ sở hạ tầng có thể triển khai các nút
SWAM để bao phủ một khu vực địa lý nhất định và bán lại dung lượng này để cung
cấp kết nối theo yêu cầu cho nhà khai thác mạng di động.
Từ khóa: SWAM; OpenFlow; SDN; Wifi.
1. GIỚI THIỆU
Hiện nay kiến trúc mạng truyền thống đang ngày càng trở nên không phù hợp với nhu
cầu kinh doanh của các doanh nghiệp, nhà khai thác mạng của người dùng cuối. Tăng
cường truy cập không dây được coi là phương pháp hứa hẹn nhất để cung cấp các dung
lượng cần thiết trong mạng 5G trong tương lai. Sự tăng cường có thể đạt được bằng cách
tung ra các Tế bào nhỏ ngoài trời (Small Cells - SCs), bổ sung cho phạm vi bảo hiểm được
cung cấp bởi lớp tế bào vĩ mô với công suất bổ sung trong các khu vực mục tiêu. Tuy
nhiên, ba vấn đề chính cần được giải quyết để cho phép triển khai SC lớn ngoài trời. Đầu
tiên, việc triển khai SC dày đặc dễ bị nhiễu, cần được giảm thiểu để có hiệu suất tối đa.
Thứ hai, SC sẽ được lắp đặt trên các thiết bị có sẵn trên đường phố, nơi kết nối mạng
thường không có sẵn với giá cả cạnh tranh, do đó cần có giải pháp đổi mới sáng tạo. Thứ
ba, là vị trí cho SC ngoài trời bị hạn chế, các nhà khai thác có thể chia sẻ hiệu quả cơ sở hạ
tầng SC.
Trong bài báo này, tôi trình bày SWAM, một hệ thống xây dựng trên các bộ định
tuyến Wi-Fi, để cung cấp cơ sở hạ tầng truy cập không dây hỗ trợ nhiều thuê bao, tính di
động và khả năng truy cập và truy cập tích hợp. SWAM có thể được sử dụng bởi nhà cung
cấp cơ sở hạ tầng để cung cấp kết nối theo yêu cầu cho các khách hàng khác nhau, như mô
tả trong hình 1.
Hình 1. Triển khai SC dày đặc với khả năng truy cập không dây và backhaul.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 65, 02 - 2020 197
2. CẤU TRÚC HỆ THỐNG
Trong triển khai cơ bản, một nút SWAM có thể được trang bị ba hoặc bốn giao diện
mạng không dây (NIC) và một giao diện Ethernet trong trường hợp nó kết nối với mạng có
dây. Một hoặc hai NIC không dây được sử dụng để cung cấp lưu lượng truy cập ở băng
tần 2,4 GHz và/hoặc 5 GHz, trong khi hai NIC không dây khác được sử dụng để cung cấp
chức năng truyền dẫn không dây trong băng tần 5 GHz.
SWAM cung cấp cho nhiều khách thuê thông qua việc khởi tạo các giao diện ảo trên
đầu các NIC truy cập không dây, trong đó mỗi giao diện ảo đại diện cho một điểm truy cập
ảo (vap), phục vụ lưu lượng truy cập cho một đối tượng thuê cụ thể. Giao diện truyền dữ
liệu (backhaul) của các nút SWAM kết nối với nhau tạo thành một mạng lưới không dây.
Trong SWAM, việc kiểm soát và quản lý tài nguyên truy cập và backhaul được thực hiện
bằng bộ điều khiển SWAM được minh họa trong hình 2, thực hiện ba nhiệm vụ chính: 1)
Lưu lượng truy cập thông qua backhaul không dây (mô đun backhaul); 2) lưu lượng truy
cập đa kênh vào không dây backhaul (mô-đun truy cập) và 3) cung cấp động các giao diện
ảo cần thiết cho mỗi đối tượng thuê bao (mô-đun cung cấp).
Hình 2. Mẫu triển khai SWAM.
2.1. Datapath SWAM
Hình 3 mô tả bộ đường dẫn dữ liệu (datapath) phụ trách xử lý gói trong một nút
SWAM. Ở phía bên trái, chúng ta có thể thấy một ví dụ về nút SWAM với ba giao diện
không dây vật lý và một giao diện Ethernet. Một giao diện không dây được sử dụng để
phục vụ lưu lượng truy cập và khởi tạo hai giao diện vap cho thuê bao A và B, trong khi
hai giao diện không dây khác được sử dụng cho backhaul không dây và khởi tạo hai giao
diện lưới. Giao diện Ethernet kết nối với mạng có dây và khởi tạo giao diện đường hầm.Ý
tưởng cốt lõi đằng sau cơ sở dữ liệu SWAM là một sự tách biệt hợp lý giữa truy cập và
backhaul. Backhaul không dây chuyển tiếp các gói dọc theo một bộ các đường hầm từ đầu
đến cuối, còn phía truy cập là khớp lưu lượng đến từ các vap của thuê bao đến các đường
hầm backhaul thích hợp.
a) Cầu cho mỗi đối tượng thuê bao: quản lý các giao diện sau: i) tất cả các lỗ hổng cho
thuê bao này, ii) bất kỳ đường hầm nào nếu cho thuê bao này và iii) một bộ giao diện ảo
kết nối với các nút SWAM khác nơi thuê bao này có sự hiện diện. Các cầu nối cho mỗi
bên thuê hoạt động như các cầu học MAC truyền thống, do đó họ tự động tìm hiểu vị trí
của các khách hàng thuê khác trong mạng.
b) Cầu tích hợp: Công việc của cầu tích hợp, br_int, là ánh xạ lưu lượng truy cập từ
thuê bao truy cập và mạng gia đình đến các đường hầm backhaul không dây. Cụ thể,
br_int duy trì một ánh xạ giữa mỗi cổng đối diện của các cầu truy cập của mỗi bên thuê và
Thông tin khoa học công nghệ
Lê Xuân Thành, “Ứng dụng công nghệ SDN trên WiFi.” 198
đường hầm backhaul tương ứng của họ. Phần bên phải của hình 3 mô tả phần của bảng
chuyển tiếp trong br_int ảnh hưởng đến thuê bao A. Bảng chuyển tiếp trong cầu tích hợp
được mô đun truy cập trong bộ điều khiển SWAM sử dụng OpenFlow.
c) Cầu backhaul: Công việc của cầu backhaul, br_bh, là chuyển các đường hầm
backhaul dựa trên mã định danh Vlan của chúng (hình 3). Các công tắc phần mềm SDN,
như br_bh, đã được thiết kế để kiểm soát các giao diện vật lý điểm-điểm (p2p), theo đó
bảng chuyển tiếp xác định bước nhảy tiếp theo cho gói bằng cách quyết định giao diện đầu
ra. Áp dụng kiến trúc không dây SDN với mỗi điểm đến tiềm năng có thể truy cập thông
qua giao diện không dây p2mp được biểu diễn bằng giao diện Ethernet ảo, được gắn với
công tắc phần mềm SDN (br_bh).
Hình 3. Ví dụ dữ liệu SWAM trong nút SWAM s0.
2.2. Khả năng mở rộng của đường dữ liệu SWAM
Các yếu tố giới hạn khả năng mở rộng của SWAM, là số lượng thuê bao đồng thời, số
lượng đường hầm backhaul và số lượng quy tắc được duy trì trong cơ sở dữ liệu SWAM.
Số lượng vaps đồng thời tối đa trên một NIC không dây vật lý bị giới hạn bởi chi phí được
giới thiệu bởi mỗi vap. Thông thường, một vap truyền khung Beacon cứ sau 100 ms với Sơ
đồ điều chế và mã hóa chậm (MCS). Các nhà cung cấp Wi-Fi dành cho doanh nghiệp hiện
khuyên dùng số lượng tối đa 5 vaps cho mỗi NIC không dây, mặc dù số lượng có thể được
tăng lên bằng cách sử dụng MCS cao hơn cho các khung Beacon. Coi số lượng thuê bao
đồng thời thích hợp trong SWAM là từ 5 đến 10. Sử dụng ID Vlan làm định danh đường
hầm, SWAM có thể có tối đa 4096 đường hầm hồi lưu đơn hướng. Xem xét T số lượng
khách thuê trong mạng và N số lượng nút SWAM, tối đa 2 đường hầm backhaul 2*T*N*(N
- 1) được yêu cầu nếu tất cả thuê bao có sự hiện diện trong tất cả các nút SWAM.
2.3. Mặt phẳng điều khiển SWAM
SWAM chứa các cơ chế mặt phẳng điều khiển cung cấp ba tính năng chính:
a) Tránh vòng lặp và hỗ trợ nhiều cổng: Để tránh các vòng lặp trong lớp phủ kết quả,
mô đun truy cập trong bộ điều khiển SWAM thực hiện thuật toán Spanning Tree truyền
thống cho mỗi lớp phủ. Để áp dụng Spanning Tree, một nút SWAM cho mỗi đối tượng
thuê cần được chỉ định làm nút gốc. Trong SWAM, nút gốc của thuê bao là một nút cổng
SWAM có giao diện đường hầm đến mạng gia đình của thuê bao. Do đó, trong các cầu
truy cập trong các nút SWAM cho thuê bao t, chúng ta cần chặn tất cả các cổng p
liên kết đến một đường hầm backhaul khác với đường hầm đến gốc thuê bao, tức là p<t: i →
rt>, trong đó rt thuộc S là nút SWAM đóng vai trò là root cho thuê bao t và S = {s0, ..., s|S-1|}
là tập hợp của tất cả các nút SWAM. Do tất cả các nút SWAM có một đường hầm trực tiếp
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 65, 02 - 2020 199
đến nút gốc, lớp phủ cho mỗi bên thuê kết quả là một cấu trúc liên kết trung tâm và nói
như được mô tả trong phần bên trái của hình 4.
Hình 4. Mặt phẳng điều khiển SWAM.
Để cho phép cân bằng tải, SWAM hỗ trợ phân bổ nhiều cổng đồng thời cho một thuê
bao nhất định. Nhiều cổng được kích hoạt đơn giản bằng cách định cấu hình cầu truy cập
của thuê bao trong các nút SWAM không gốc khác nhau để trỏ đến một cổng SWAM khác
bằng cách sử dụng các quy tắc thả thích hợp trong br_int. Phần bên phải của hình 4 minh
họa cấu hình multigateway. Mô-đun truy cập trong bộ điều khiển SWAM có thể quyết
định thay đổi số lượng nút gốc cho mỗi đối tượng thuê một cách linh hoạt theo lưu lượng
được thực hiện bởi backhaul không dây.
b) Hỗ trợ di động: Một thiết bị khách được gắn vào một vap của một thuê bao nhất định
sẽ duy trì kết nối trong khi chuyển vùng qua mạng. Để duy trì kết nối khi chuyển giao máy
khách, MAC liệt kê trong cầu truy cập trong nút gốc của thuê bao và trong cầu nối mạng
gia đình, cần phải được cập nhật để trỏ đến đường hầm kết nối với nút SWAM nơi máy
khách hiện đang được gắn. Do đó, điều quan trọng là phải cập nhật chính xác danh sách
MAC trong các cây cầu bị ảnh hưởng ngay khi phát hiện điểm đính kèm mới (vap) cho
thiết bị khách.
3. CÁC PHƯƠNG ÁN THỬ NGHIỆM VÀ ĐÁNH GIÁ
Để đánh giá, một thử nghiệm vật lý trong nhà được thiết lập bao gồm năm nút SWAM
được xây dựng với các thành phần như trong hình 5. Mỗi nút được trang bị một NIC
không dây IEEE 802.11ac để cung cấp kết nối WiFi cho khách hàng và một hoặc hai
chuẩn 802.11 802.11 acs để thiết lập liên kết backhaul không dây.
Hình 5. Vị trí vật lý và khoảng cách giữa các nút được kết nối.
Do các hạn chế về không gian, tất cả các ăng-ten được sử dụng là lưỡng cực. Nhằm sử
dụng tính năng lọc lớp MAC, một cấu trúc liên kết hợp lý được thiết lập và khởi tạo thuê
bao A và thuê bao B, với các giao diện đường hầm và đường hầm tương ứng kết nối với
Thông tin khoa học công nghệ
Lê Xuân Thành, “Ứng dụng công nghệ SDN trên WiFi.” 200
mạng gia đình, như mô tả trong hình 6. Trong cấu hình ban đầu này, các nút từ s0 đến s4
thông báo SSID cho hai thuê bao trên các vaps chuyên dụng. Cụ thể, bên A khởi tạo các
vaps trong s1 và s2, còn bên B khởi tạo các vaps trong các nút s1 và s3.
Hình 6. Cấu trúc liên kết logic được sử dụng để chứng minh khả năng SWAM.
Với thuê bao A, s4 đóng vai trò là cổng còn B có hai cổng có thể là: s0 và s4. Ban đầu,
các đường hầm backhaul được cấu hình theo cách mà cổng mặc định để tiếp cận với cả hai
bên thuê bao mạng là s4, để lại là cổng thay thế cho thuê bao B. Tôi kết nối ba máy tính
xách tay (máy khách) được trang bị khóa Wi-Fi IEEE 802.11b/g/n với các khoảng trống
cho mỗi bên thuê khác nhau của mạng: thiết bị STAA1 được gắn vào mạng thuê bao một
mạng được công bố tại s1, các thiết bị STAB1 và STAB2 được gắn vào các lỗ của thuê bao
B trên các nút s1 và s3.
Đường dẫn ngược dòng mặc định theo sau cho các luồng dữ liệu từ STAA1 tới mạng gia
đình của nó đi từ s1→s2→s4, nhánh trên của cấu trúc liên kết. Để đơn giản, trong tất cả
các thí nghiệm, đường dẫn hạ lưu được chọn là đối xứng với đường dẫn ngược dòng. Do
đó, đường hầm backhaul s4→s2→s1 được sử dụng cho bất kỳ lưu lượng truy cập xuôi
dòng nào đến từ mạng của thuê bao A nhà mạng hướng về STAA1. Tương tự, đối với
STAB1, đường dẫn dữ liệu đối xứng được khởi tạo trên nhánh dưới s1-s3-s4, với STAB2 thì
đường dẫn dữ liệu đối xứng đi qua s3-s4.
3.1. Cách ly truy cập và backhaul
Thử nghiệm đầu tiên chứng minh những lợi thế của việc phân tách truy cập và
backhaul được nhúng trong kiến trúc SWAM, một iperf khách được khởi chạy trên mỗi ba
máy khách, tạo ra luồng UDP với tốc độ dữ liệu cố định 32 Mbps đối với iperf chủ nằm
trong mạng gia đình thuê bao tương ứng. Khi bắt đầu thử nghiệm, khoảng 30 Mbps thông
lượng từ đầu đến cuối cho các luồng có nguồn gốc từ s1 (STAA1, STAB1) và khoảng 23
Mbps cho luồng có nguồn gốc từ s3 (STAB2) được ghi chú (hình 8). Thông lượng thấp hơn
quan sát được đối với STAB2 có thể được giải thích bằng một mặt do độ bão hòa của liên
kết backhaul s3-s4 và mặt khác do nhiễu kênh chéo ở s3. Quan sát loại nhiễu này, vì có 3
NIC trên s3 (backhaul và access) đang hoạt động cùng một lúc. Môi trường không dây bị
ảnh hưởng bởi các điều kiện này và các liên kết truy cập hoạt động khác nhau đối với mỗi
khách hàng. Cụ thể, quan sát thấy liên kết truy cập STAB2 không bị nhiễu.
Việc ngắt liên kết mà SWAM phải phản ứng xảy ra 60 giây sau khi bắt đầu thử nghiệm.
Để kích hoạt ngắt liên kết, giao diện truyền ngược không dây trên s3 kết nối với s1 bị tắt
mạnh, làm gián đoạn luồng dữ liệu ngược dòng được tạo bởi STAB1. SWAM ngay lập tức
phản ứng bằng cách phân bổ lại lưu lượng STAB1 vào đường dẫn sao lưu duy nhất có thể
về phía s4 qua nhánh trên, như được biểu thị bằng một đường đứt nét trong hình 7.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 65, 02 - 2020 201
Hình 7. Phân bổ lại luồng do sự kiện phá vỡ liên kết.
Hình 8 cho thấy thông lượng cô lập của STAB1 được đo tại các nút s3 và s2 trước và sau
quá trình phân bổ lại trong một thử nghiệm được chọn. Ở mốc 60 giây, có thể thấy dòng
chảy từ đầu đến cuối dừng chảy qua s3 và cách nó được phân bổ lại cho s2, cho thấy một
quy trình phân bổ lại liền mạch. Mặc dù trong thí nghiệm này cho thấy quá trình tái phân bổ
nhanh được thực hiện bởi SWAM hầu như không ảnh hưởng đến hiệu suất của STAB1.
Hình 8.(a) Tốc độ dữ liệu trong backhaul;
(b) Thông lượng của STAB1.
Lưu lượng từ đầu đến cuối ảnh hưởng đến các điều kiện mạng chung. Một mặt, STAB2
trải qua sự gia tăng thông lượng từ đầu đến cuối của nó, vì nhiễu từ liên kết s1-s3 được
loại bỏ. Ngoài ra, s3 chịu ít nhiễu sóng vô tuyến cục bộ hơn vì hai NIC vẫn còn hoạt động
không còn cạnh tranh với NIC bị vô hiệu hóa được sử dụng cho liên kết backhaul s1-s3.
Mặt khác, STAB1 và STAA1 hiện sử dụng các liên kết backhaul tương tự và chúng phải
chia sẻ dung lượng khả dụng. Do tổng của hai luồng đầu cuối vượt quá dung lượng liên
kết, quan sát thấy việc giảm tổng lưu lượng của chúng xuống khoảng 23 Mbps. SWAM
phát hiện tắc nghẽn mạng này, dẫn đến thử nghiệm tiếp theo, trong đó tắc nghẽn mạng
được giảm thông qua việc phân bổ lại cổng được kích hoạt bởi bộ điều khiển SWAM.
3.2. Phân bổ lại cổng
Hình 9(a) mô tả kết quả từ thí nghiệm đầu với ICMP. Lúc đầu, khi cổng cho STAB1 là
s4, RTT trung bình dao động trong khoảng 4 ms, khi dòng chảy end-end đi qua hai bước
trong backhaul không dây (s1-s2-s4). Sau khi di chuyển cổng, luồng STAB1 chỉ đi qua
Thông tin khoa học công nghệ
Lê Xuân Thành, “Ứng dụng công nghệ SDN trên WiFi.” 202
một liên kết backhaul (s1-s0) trước khi đến giao diện đường hầm đến mạng gia đình và
RTT giảm xuống còn 2 ms. Hình 9 (b) cho thấy CDF theo kinh nghiệm về thời gian ngừng
kết nối do quá trình di dời được đo trong tất cả các thí nghiệm. Hình 10 cho thấy hai
trường hợp khác nhau đại diện cho cách thông lượng phát triển sau quá trình phân bổ lại
cổng. Trong trường hợp 1 (đường liên tục), TCP thực hiện phục hồi nhanh, nhanh chóng
đạt các giá trị thông lượng tương tự như trước quá trình phân bổ lại. Trong trường hợp 2
(đường nét đứt), TCP thực hiện thủ tục khởi động chậm, kéo dài hiệu quả thời gian để máy
khách đạt đến mức thông lượng ban đầu. Như vậy, các luồng liên tục sử dụng TCP phục
hồi từ việc di chuyển cổng trong thời gian hợp lý. Vì việc di dời không phải là một sự kiện
phổ biến, nhưng đây là một cơ chế hiệu quả để cân bằng tải khi giảm thiểu tác động đối
với lưu lượng truy cập đang diễn ra.
Hình 9.(a) CDF của RTT;
(b) RTT khi di dời STAB1.
Hình 10. Thông lượng TCP khi di chuyển cổng STAB1.
3.3. Di động
Thử nghiệm cuối cùng cho thấy cách SWAM xử lý tính di động của khách hàng khi
khách hàng chọn thay đổi vap mà họ được kết nối với. Để xác định SWAM có thể phản
ứng nhanh như thế nào với máy khách chuyển từ vap này sang vap khác, hai sự kiện khác
nhau được phân tích: i) STAA1 di chuyển từ vap trên nút s1 sang vap trên nút s2 và ii)
STAB1 di chuyển từ vap trên nút s1 đến vap trên nút s3 (như được mô tả trong hình 11).
Hình 12 cho thấy các CDF về thời gian phân bổ lại tổng thể được đo cho STAA1 và
STAB1 trên tất cả các lần lặp lại thử nghiệm. Quá trình phân bổ lại được chứng minh là
nhanh chóng, trung bình chỉ mất ít hơn 30 ms và nhiều nhất là 50 ms, không phụ thuộc vào
khách hàng. Trung bình, STAA1 được phân bổ lại nhanh hơn một chút so với STAB1, vì chỉ
cần cập nhật cầu truy cập trong nút gốc chứ không phải trong mạng gia đình thuê bao. Nhìn
chung, có thể nói rằng thời gian phân bổ lại cho cả hai khách hàng chỉ chiếm một phần nhỏ
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số 65, 02 - 2020 203
thời gian bàn giao. Điều này chứng tỏ rằng SWAM là một kiến trúc rất nhanh nhẹn, có khả
năng thích ứng nhanh với cấu hình mạng của nó khi xử lý tính di động của máy khách.
Hình 11. Phân bổ sau khi di chuyển cổng.
Hình 12. CDF chuyển giao.
4. KẾT LUẬN
Bài báo này đã giới thiệu SWAM, một hệ thống xây dựng trên các thiết bị không dây
giá rẻ để cung cấp các mạng SC hỗ trợ nhiều khách thuê, tính di động của khách hàng, và
truy cập không dây tích hợp. Nguyên mẫu SWAM được tạo trên một nền tảng nhúng bằng
cách sử dụng công nghệ SDN trên WiFi và đã chứng minh tính khả thi và hiệu suất của nó
trên một thử nghiệm văn phòng trong nhà. SWAM có thể phục hồi từ các lỗi trong
backhaul không dây mà không ảnh hưởng đến lưu lượng truy cập đang diễn ra, có thể di
chuyển các cổng liên tục trong khoảng 200ms và có thể cấu hình lại các đường hầm
backhaul khi bàn giao trong khoảng 20ms.
SWAM có thể được mở rộng theo nhiều cách: i) các quy tắc xếp hàng phải được thực
hiện trên các giao diện không dây vật lý thực thi QoS trên các đường hầm từ đầu đến cuối;
ii) các thuật toán được yêu cầu để quyết định khi nào phân bổ lại các cổng SWAM để cân
bằng lưu lượng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hurtado-Borras, A. et al. (2015, June). SDN wireless backhauling for Small Cells. In
Communications (ICC), 2015 IEEE International Conference on (pp. 3897-3902). IEEE.
Thông tin khoa học công nghệ
Lê Xuân Thành, “Ứng dụng công nghệ SDN trên WiFi.” 204
[2]. Betzler, A. et al. (2016, June). On the benefits of wireless SDN in networks of
constrained edge devices. In Networks and Communications (EuCNC), 2016
European Conference on (pp. 37-41). IEEE.
[3]. Garcia-Villegas, E. et al. (2017, June). SENSEFUL: An SDN-based joint access and
backhaul coordination for Dense Wi-Fi Small Cells. In Wireless Communications and
Mobile Computing Conference (IWCMC), 2017 13th International (pp. 494-499). IEEE.
ABSTRACT
SDN TECHNOLOGY APPLICATION ON WIFI
Software-defined networks (SDNs) promise to transform today's fixed networks
into programming-based platforms with the ability to dynamically allocate
resources, becoming more flexible, and scaling to support support massive data
centers with the virtualization needed for a highly automated, dynamic, and secure
cloud computing environment. In this article, I present SWAM, a system built on Wi-
Fi routers with multiple wireless interfaces to provide a wireless access
infrastructure that supports multi-subscriber, mobility, and Integrated wireless
access. Infrastructure providers can deploy SWAM nodes to cover a certain
geographic area and resell this capacity to provide on-demand connectivity to
mobile network operators.
Keywords: SWAN; SDN; SDN-based Wi-Fi Small Cells.
Nhận bài ngày 14 tháng 11 năm 2019
Hoàn thiện ngày 23 tháng 12 năm 2019
Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 02 năm 2020
Địa chỉ: Khoa Kỹ thuật điện tử, Học Viện Bưu chính Viễn thông.
*Email: thanhqn80@gmail.com.