Truy cập trung gian hỗtrợthực hiện điều khiển cuộc gọi và báo hiệu. Các 
chức năng trung gian then chốt phải được điều hành, kiểm soát bao gồm: bí 
mật, an toàn và định tuyến bản tin, hiển thịbản tin và các tham sốcủa nó, 
bắc cầu và biến đổi thủtục, giám sát hiệu năng khai thác, bảo vệ, điều hành 
xửlý lỗi và tính cước. Mục tiêu truy cập trung gian là: tạo cho các mạng 
riêng khác nhau có thểkết nối được với nhau.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 16 trang
16 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng truy cập trung gian/các cổng truy cập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ứng dụng truy cập trung gian/các cổng truy cập 
Nguồn: khonggianit.vn 
Truy cập trung gian hỗ trợ thực hiện điều khiển cuộc gọi và báo hiệu. Các 
chức năng trung gian then chốt phải được điều hành, kiểm soát bao gồm: bí 
mật, an toàn và định tuyến bản tin, hiển thị bản tin và các tham số của nó, 
bắc cầu và biến đổi thủ tục, giám sát hiệu năng khai thác, bảo vệ, điều hành 
xử lý lỗi và tính cước. Mục tiêu truy cập trung gian là: tạo cho các mạng 
riêng khác nhau có thể kết nối được với nhau. 
1. Tổng quan 
Như mô tả trên Hình 1, truy cập trung gian có thể được tạo nên bằng điểm trung 
gian trên mạng báo hiệu. Các mạng được kết nối với nhau có thể là mạng hữu 
tuyến, không dây, đường dài hoặc Internet của bất cứ nhà cung cấp dịch vụ nào. 
Các mạng có thể biến thiên bằng định nghĩa chuẩn, thủ tục, và được các nhà cung 
cấp thiết bị và cung cấp dịch vụ phát triển. Ở đâu các chuẩn và các thủ tục gặp 
nhau, các dịch vụ đưa ra có thể biến thiên theo sự sẵn sàng và bổ sung cho nhau. 
Các dịch vụ tiên tiến có thể nhận được từ các phần mạng từ một nhà cung cấp dịch 
vụ cơ bản đến các thuê bao. Đối với mỗi một trong những trường hợp này, nhiều 
thông báo cần được thực hiện để kết nối giữa các mạng, các câu hỏi sau đây cần 
được trả lời rõ ràng: 
- Các bản tin báo hiệu nào có thể được phép trao đổi giữa các mạng ? 
- Những dịch vụ nào có thể thực hiện được không ? 
- Việc tính cước được thực hiện như thế nào đối với mỗi mạng ? 
- Kiểu biến đổi thủ tục nào cần thiết để các mạng liên lạc với nhau ? 
Hình 1. Truy cập trung gian theo khái niệm mạng 
2. Truy cập trung gian 
Đặc trưng đối với những ứng dụng trên nền thoại của các truy cập trung gian là 
cần thiết cho điểm trung gian trong mạng báo hiệu số 7 (SS7) thuộc mạng thông 
minh tiên tiến (AIN - Advance Intelligent Network). Điểm trung gian cho phép kết 
nối các mạng báo hiệu số 7 (SS7) do các nhà khai thác và cung cấp dịch vụ điện 
thoại khác nhau sở hữu. Bằng kết nối các mạng SS7, AIN đánh dấu các bản tin bắt 
nguồn từ mạng của một nhà cung cấp dịch vụ có thể đi qua mạng của nhà cung 
cấp dịch vụ khác. 
Trên mạng thứ hai, các bản tin được đánh dấu có thể đến điểm điều khiển dịch vụ 
(SCP - Service Control Point) của AIN và ở đó chúng sẽ được xử lý, các bản tin 
đáp ứng chính xác của AIN quay trở lại. Kết quả, khách hàng thu nhận dịch vụ 
thoại cơ bản từ mạng của một nhà cung cấp dịch vụ có thể góp vào việc sử dụng 
khả năng đưa ra dịch vụ của AIN trên mạng của nhà cung cấp thứ hai. Hình 2 mô 
tả quá trình điểm trung gian thực hiện báo hiệu AIN liên kết với ví dụ này. 
Hình 2. Ví dụ về truy cập trung gian 
Như mô tả trên Hình 2, các ký hiệu số học chỉ ra tuyến truyền bản tin IN theo trình 
tự thời gian, bản tin IN được chỉ ra bằng các chữ số có ý nghĩa như sau: 
1. Nút bấm AIN được phát hiện và xếp hàng đợi để đi đến điểm chuyển tiếp dịch 
vụ (STP - Service Transfer Point) của nhà cung cấp dịch vụ cơ bản. 
2. Trên cơ sở dịch tiêu đề bản tin, STP của nhà cung cấp dịch vụ cơ bản chuyển 
hàng AIN đến điểm trung gian. 
3. Điểm trung gian thu bản tin AIN trung gian sau đó được biến đổi, chức năng 
trung gian có thể bao gồm hiển thị các phần tử mạng, hiển thị bản tin mạng, hiển 
thị tham số, điều khiển quá tải và chờ đích đến. Ví dụ chọn đích đến có thể dựa 
trên dữ liệu SPC hoặc nhiều dữ liệu hơn như là các tham số TCAP (như thuê bao 
chủ, bị gọi). Hoạt động như đại diện, điểm trung gian hướng đến AIN để hỏi mã 
điểm đến SCP của nhà cung cấp dịch vụ thay thế qua STP của nhà cung cấp dịch 
vụ cơ bản. 
4. STP của nhà cung cấp dịch vụ cơ bản thu bản tin hỏi AIN và chuyển đến SCP 
của nhà cung cấp dịch vụ thay thế. 
5. SCP của nhà cung cấp dịch vụ thay thế thu bản tin AIN, thực hiện chức năng 
AIN một cách chính xác, gửi bản tin đáp ứng đến mạng lưới của nhà cung cấp 
dịch vụ cơ bản. 
6. STP của nhà cung cấp dịch vụ cơ bản thu bản tin đáp ứng AIN và gửi bản tin 
quay lại điểm trung gian cho chức năng AIN gia tăng, như là hiển thị thành phần 
mạng, hiển thị bản tin và tham số và tính cước. 
7. Điểm trung gian chuyển bản tin đáp ứng quay về STP của nhà cung cấp dịch vụ 
cơ bản. 
8. STP của nhà cung cấp dịch vụ cơ bản gửi bản tin ngược lại đến điểm chuyển 
mạch báo hiệu (SSP) cho xử lý AIN cuối cùng. 
3. Ví dụ cổng truy cập 
Như một lĩnh vực ứng dụng quan trọng của truy cập trung gian, các cổng truy cập 
cho phép các mạng dựa trên nền các thủ tục báo hiệu khác nhau có thể kết nối với 
nhau. Ví dụ như sát nhập công ty điện thoại tạo ra sự cần thiết kết nối các mạng có 
chuẩn báo hiệu khác nhau. Các mạng không dây dựa trên chuẩn GSM phải được 
kết nối với các mạng trên nền tiêu chuẩn quá độ 41 (IS - 41 - Interim Standard 41); 
Cổng truy cập cung cấp biến đổi thủ tục cần thiết để kết nối những mạng này. Tóm 
lại, các nhà cung cấp dịch vụ đang sử dụng các mạng TCP/IP dùng báo hiệu kênh 
chung SS7 cho báo hiệu trên mạng hiện tại (xem Hình 3), trong đó mạng trên nền 
TCP/IP kết nối hai mạng không dây trên nền IS - 41 đầu xa. Mạng trên nền 
TCP/IP được dùng để truyền đưa các bản tin ngắn giữa hai mạng không dây. Bởi 
vì các bản tin ngắn không gây cấn về thời gian, mạng TCP/IP được dùng để kết 
nối các mạng đầu xa là giải pháp tiết kiệm chi phí. 
Trong các thuật ngữ dòng bản tin, bản tin ngắn có thể hình thành trong mạng trên 
nền IS - 41 đầu xa (xem góc trái Hình 3). Cổng truy cập trong mạng đầu xa này có 
thủ tục biến đổi bản tin ngắn này để nó có thể chuyển qua mạng TCP/IP. Trên cơ 
sở gặp được mạng IS - 41 thứ hai, cổng truy cập tương ứng biến đổi bản tin ngắn 
trở lại bản tin IS - 41. Bản tin ngắn sau đó chuyển qua trung tâm chuyển mạch di 
động (MSC - mobile switching center) ở đó nó được định tuyến đến trạm gốc vô 
tuyến (Wireless Base Station - BS). Tại BS, bản tin ngắn được phát đến máy di 
động thuê bao đích (bị gọi) và ở đó bản tin ngắn được hiển thị. 
Hình 3. Một ví dụ về cổng truy cập 
Tóm lại, trên thực tế chi phí triển khai và bảo trì các mạng trên nền TCP/IP thấp 
hơn so với các mạng trên nền IS - 41, khả năng mở rộng của các mạng trên nền 
TCP/IP cũng cao hơn trong những ứng dụng nêu trên. Chẳng hạn như, thay vì 
chuyển bản tin ngắn cho thuê bao vô tuyến trên mạng IS-41, mạng TCP/IP có thể 
hỗ trợ bằng Website (Hình 4). Làm như vậy không chỉ dễ truyền bản tin hơn dùng 
máy di động mà nó còn cho phép rất nhiều bộ phát bản tin ngắn. 
Hình 4. Ví dụ Cổng truy cập tiên tiến 
Bất cứ ai truy cập Web đều có thể đưa số thuê bao Mobile và bản tin ngắn dạng 
text tại Website. Sau khi người dùng đưa tin ngắn, bản tin đó được phát qua mạng 
TCP/IP đến chính xác mạng IS-41. Cổng truy cập biến đổi tin ngắn thành bản tin 
IS-41 và gửi đến MSC để định tuyến đến trạm gốc di động (BS) và từ đó tin ngắn 
được phát đến máy di động cầm tay và được hiển thị trên đó. 
4. Các ứng dụng 
Sau đây chúng ta xem đến hai modules ứng dụng sử dụng cổng truy cập giữa 
mạng điện thoại truyền thống và Internet. Những modules này cho thấy tầm quan 
trọng của các cổng truy cập trong môi trường dịch vụ mạng, ở đó Internet đang trở 
thành quan trọng như mạng điện thoại. Như kết quả đã nêu, các nhà cung cấp dịch 
vụ cần tìm kiếm đối tác hoặc tích hợp hai mạng vào mạng đơn. 
4.1. Giao diện Người dùng với Mạng 
Trong ví dụ trình bày trên đây, Website trên Internet được sử dụng như một phần 
của dịch vụ tin ngắn không dây. Website tin ngắn cung cấp giao diện người dùng 
tốt hơn so với dùng bàn phím máy mobile đầu cuối. Tóm lại đưa các bản tin text 
trên bàn phím điện thoại khó khăn hơn nhiều so với gõ chúng trên bàn phím máy 
tính. Website còn có thể cung cấp truy cập như bản tin tại đầu vào cho nhiều bộ 
phát tin ngắn. bất cứ ai với truy cập Web có thể đưa vào số điện thoại di động và 
bản tin tại Website tin ngắn. 
Còn có rất nhiều ứng dụng và dịch vụ trên nền điện thoại có thể thu nhiều lợi 
nhuận trên các Website giống nhau, ví dụ sử dụng bàn phím điện thoại như là giao 
diện người dùng rõ ràng rất khó khăn. Trên Hình 5, các Website trên nền Internet 
có thể được cung cấp cho các dịch vụ và các ứng dụng nằm ngay trên các chuyển 
mạch điện thoại, các nút dịch vụ mạng thông minh (IN SNs), IN SCPs và các hệ 
thống điều hành dịch vụ IN (SMSs). Ví dụ các ứng dụng và dịch vụ trên nền IN 
SN thường hay có các tham số có khả năng đặt cấu hình người dùng và các danh 
sách điều khiển khai thác dịch vụ trên cơ sở nhu cầu người dùng. Đặc biệt, số cá 
nhân phức tạp hoặc các dịch vụ followme đã được triển khai trên SNs. 
Như là một phần của các dịch vụ này, thuê bao có thể thiết lập cuộc gọi điều khiển 
trước trên cơ sở nhiều số điện thoại và vị trí của danh sách theo thời gian trong 
ngày và ngày trong tuần. Những tham số này rất khó khi đưa vào và quản lý khi ta 
chỉ dùng bàn phím máy điện thoại và dùng các Website sẽ tăng hiệu quả sử dụng 
các dịch vụ, nó làm cho thuê bao thoả mãn và tăng các giá trị dịch vụ. Các dịch vụ 
và ứng dụng giống nhau sẵn có trong chuyển mạch điện thoại và IN SCPs. 
Cũng như vậy, các dịch vụ và ứng dụng này có thể thu lợi từ các giao diện người 
dùng trên nền Web. 
Hình 5. Ví dụ giao diện người dùng với mạng 
Nhằm mở rộng các dịch vụ và ứng dụng, các giao diện trên nền Web có thể được 
cung cấp cho các hệ thống quản lý và khai thác mạng điện thoại. Ví dụ, cơ quan 
quản lý viễn thông Hoa Kỳ (FCC) yêu cầu mở mạng điện thoại để cạnh tranh truy 
cập nhằm tạo cơ hội cho các Website được hoạt động như các điểm truy cập cho 
các hệ thống quản lý và khai thác. Nhà cung cấp dịch vụ cạnh tranh có thể điều 
khiển truy cập đến IN SMS của các nhà cung cấp chiếm ưu thế hơn thông qua giao 
diện Web. Với giới thiệu như trên, các Website có thể cung cấp truy cập có kiểm 
soát đến các hệ thống khai thác và quản lý liên kết với mạng chiếm ưu thế hơn. 
Trong những tình huống nói trên, các cổng truy cập thống nhất các thủ tục của các 
mạng khác nhau, những thủ tục ấy cần thiết để truy cập và điều khiển các hệ thống 
mạng điện thoại. Các hệ thống đó được trang bị từ nhiều nhà cung cấp thiết bị 
trong một thời gian dài, kết quả là một nhóm các thủ tục và các bản tin điều khiển, 
tóm lại, tuyệt đại đa số các thủ tục và các bản tin điều khiển này mang đặc trưng 
của nhà cung cấp thiết bị. Cổng truy cập hoạt động như một điểm đơn chuyển dịch 
giữa các Website và các hệ thống khác nhau của mạng điện thoại. 
4.2. Tình huống điều khiển nút bấm chuyển mạch điện thoại 
Khả năng điều khiển trạng thái nút bấm chuyển mạch điện thoại từ Internet sẽ trở 
nên rất quan trọng để tích hợp mạng điện thoại và Internet. Tóm lại, khả năng nút 
bấm trở lại liên kết với các thuê bao "ON" hoặc "OFF" sẽ là quyết định, nó trở nên 
rất quan trọng như là nhu cầu dịch vụ của khách hàng muốn sử dụng cả điện thoại 
và Internet. Trong phần 5 dưới đây mô tả ví dụ điển hình về dịch vụ sử dụng mạng 
điện thoại và Internet để mở rộng dịch vụ chờ cuộc gọi "call waiting" truyền 
thống. Sơ đồ mạng điều khiển nút bấm cơ bản mô tả trên Hình 6. Trong trạng thái 
này, ứng dụng trên nền Internet có thể liên lạc với cổng truy cập yêu cầu thay đổi 
trạng thái nút bấm mạng điện thoại cho thuê bao đặc biệt. Sau đó cổng truy cập 
liên lạc đúng với chuyển mạch điện thoại qua mạng báo hiệu kênh chung (SS7), 
thay đổi trạng thái nút bấm. 
Hình 6. điều khiển nút bấm chuyển mạch điện thoại 
5. Cuộc gọi chờ với Internet 
Tình huống ứng dụng cổng truy cập mô tả Internet tăng cường đến dịch vụ cuộc 
gọi chờ, chức năng cuộc gọi chờ được mở rộng tới các cuộc gọi chờ đến số thuê 
bao khi nó được kết nối đến nhà cung cấp dịch vụ internet. Hiện tại, thuê bao điện 
thoại huỷ dịch vụ cuộc gọi chờ trước khi gọi nhà cung cấp dịch vụ Internet. Như 
kết quả trong khi thuê bao kết nối đến nhà cung cấp dịch vụ internet, các cuộc gọi 
đến không kích hoạt dịch vụ cuộc gọi chờ của thuê bao. Nói một cách khác, đối 
với các cuộc gọi liên kết với Internet duy trì thời gian lâu, thuê bao không được 
biết các đoạn cuộc gọi. Tuy vậy, tích hợp các khả năng mạng điện thoại và 
Internet làm cho thuê bao điện thoại nhận biết các cuộc gọi đến trong khi thuê bao 
được kết nối Internet. Tóm lại, thông tin về thuê bao chủ gọi có thể được hiển thị 
trên màn hình máy tính thuê bao. Hình 7 chỉ ra sơ đồ mạng lưới của ứng dụng 
cổng truy nhập. Cổng truy nhập một lần nữa được sử dụng như là điểm kết nối 
giữa mạng điện thoại và internet là quan trọng bởi vì khả năng thông dịch giữa 
internet và các thủ tục biễn thiên dùng trong mạng điện thoại. 
Hình 7. Cuộc gọi chờ với Internet 
Khi thuê bao điện thoại gọi nhà cung cấp dịch vụ internet, các dịch vụ điện thoại 
của thuê bao phải được chuẩn bị cho tình huống này. Đặc biệt, khi thuê bao kết nối 
thành công đến nhà cung cấp dịch vụ internet, nhà cung cấp ấy gửi bản tin đến 
cổng truy cập thông báo cuộc nối của nó. Cổng truy cập sau đó sử dụng thông tin 
trong bản tin này để kích hoạt nút bấm "cuộc gọi kết cuối - bận"("call terminate—
busy" trong chuyển mạch thoại phục vụ thuê bao. Kết quả là bất cứ các cuộc gọi 
sau nào đến thuê bao đều gây ra bản tin AIN nghi ngờ phải gửi trong nội bộ mạng 
điện thoại. Nói một cách khác, khi cuộc gọi được thực hiện đến số thuê bao điện 
thoại, nút bấm "cuộc gọi kết cuối bận" ("call terminate—busy") sẽ tạo ra trạng thái 
bận trên cuộc gọi Internet. 
Nhấn nút bấm gây ra chuyển mạch điện thoại giúp thuê bao phát bản tin hỏi sang 
SCP trong mạng điện thoại. Trên cơ sở thu được bản tin hỏi này, SCP sẽ xem cơ 
sở dữ liệu chứa số thuê bao chủ gọi, kết quả tìm được tên thuê bao chủ gọi dưới 
dạng text. SCP sau đó gửi bản tin đến cổng truy cập có chứa số điện thoại bị gọi, 
chủ gọi và cổng truy cập gửi thông tin này trong bản tin đến nhà cung cấp Internet. 
Trên cơ sở thông tin thu được, nhà cung cấp internet thông báo cho thuê bao cuộc 
gọi hiển thị tên người gọi và số thuê bao trên màn hình máy tính của thuê bao. Khi 
thuê bao ngắt khỏi internet thì nhà cung cấp internet sẽ thông báo cho cổng truy 
cập để nó dùng thông tin này mà thôi kích hoạt nút bấm "cuộc gọi kết cuối bận" 
("call terminate -busy" trong chuyển mạch điện thoại có thuê bao đó. 
Như một dạng mở rộng của tình huống ứng dụng này, điện thoại Internet có thể 
dùng để chuyển cuộc gọi đến thuê bao. Như ví dụ nêu trên, cuộc gọi đến số thuê 
bao được hiển thị tên và số thuê bao chủ gọi trên màn hình máy tính của thuê bao, 
nhưng ứng dụng này còn có khả năng điều hành cuộc gọi. Chẳng hạn khi thuê bao 
chấp nhận, từ chối hoặc gửi cuộc gọi đến hộp thư thoại (Voice Mail), nếu thuê bao 
chấp nhận cuộc gọi thì chức năng điện thoại internet được sử dụng để chuyển từ 
SN đến thuê bao trong khi thuê bao vẫn kết nối với nhà cung cấp Internet (xem 
Hình 8). 
Hình 8. Cuộc gọi chờ với Internet 
6. Chia sẻ thông tin thuê bao, điều khiển cuộc gọi/kết nối cuộc gọi qua mạng 
6.1. Chia sẻ thông tin thuê bao 
Từ những nội dung được trình bày ở trên, một điều hiển nhiên là thông tin thuê 
bao được phân bố rộng trên nhiều vị trí và lưu giữ dưới nhiều dạng khác nhau trên 
mạng điện thoại. Như trên đây đã nói đến nhóm các thủ tục mạng và bản tin điều 
khiển được hình thành từ nhiều nhà cung cấp và triển khai thiết lập trong một thời 
gian dài. Trong tình huống ứng dụng này, cổng truy cập không chỉ được sử dụng 
để kết nối mạng điện thoại đến Internet, ngoài ra nó còn làm cho các mạng có khả 
năng chia sẻ thông tin thuê bao. Mục tiêu cuối cùng của truy cập thông tin thuê 
bao là dùng chung và tập trung đối với thông tin; chẳng hạn thông tin thuê bao 
hiện thời được lưu giữ cả trên mạng điện thoại và nhà cung cấp Internet. Một cấu 
hình tốt hơn là có thể xác định thông tin trong kho lưu trữ chung, ở đó thông tin 
được truy cập dễ dàng, thông tin luôn mới nhất và được quản lý chặt chẽ, tuy vậy 
một cấu hình như vậy khó có khả năng thực hiện. Như đã thấy, cổng truy cập cho 
phép truy cập, làm cho mới nhất thông tin thuê bao trên mạng thoại và internet 
một cách thực tế. 
Hình 9. Cấu hình thông tin thuê bao được chia sẻ 
Hình 9 trên đây mô tả cổng truy cập đóng vai trò như điểm kết nối giữa hai mạng, 
như vậy cổng truy cập là điểm chuyển dịch giữa các thủ tục truy cập thông tin sử 
dụng trong hai mạng. Trên phía mạng điện thoại, các thủ tục này thường mang đặc 
tính nhà cung cấp hoặc đặc tính ứng dụng, tóm lại một số sử dụng hệ thống báo 
hiệu số 7 (SS7). Còn trên phía nhà cung cấp dịch vụ internet, rất nhiều thủ tục 
mang đặc tính nhà cung cấp hoặc đặc tính ứng dụng, tuy nhiên rất nhiều mạng 
cung cấp Internet đã chuyển sang dùng các thủ tục chung như "Lightweight 
Directory Access Protocol -LDAP). 
Tóm lại, các điểm truy cập thông tin chung được triển khai trong rất nhiều mạng. 
Ví dụ như điểm truy cập chung có thể là năng lực "Active Directory" của 
Microsoft; xem Hình 9 nếu điểm truy cập chung như là "Active Directory" được 
thiết lập trên mạng của nhà cung cấp internet, cổng truy cập kết nối đến nó nhằm 
truy cập thông tin từ phía Internet. Theo cách đơn giản đó, cổng truy cập đóng vai 
trò như nút bấm trên hệ thống "Active Directory" tạo nên khả năng truy cập thông 
tin được duy trì trên mạng điện thoại. 
6.2. Điều khiển cuộc gọi/kết nối qua mạng 
Tình huống ứng dụng cổng truy cập cuối cùng cho thấy quá trình điều khiển cuộc 
gọi hoặc kết nối dọc theo hai mạng; trên phía mạng thoại các khả năng điều khiển 
cuộc gọi như tích hợp điện thoại - máy tính (Computer Telephony Integration - 
CTI) có thể dùng được trong các hệ thống chuyển mạch thoại nhỏ hơn. Phần báo 
hiệu người dùng mạng số đa dịch vụ (Integrated Services Digital Network User 
Part - ISUP) để thiết lập cuộc gọi thường có ở các chuyển mạch thoại tầm trung 
đến lớn. Trên giới hạn cao nhất của dải chuyển mạch, các năng lực được chuẩn 
hoá như điều khiển cuộc gọi tay ba (Third - Party Call Control - TPCC) có sẵn tạo 
nên các cuộc nối mạch ảo được chuyển trên các chuyển mạch ATM 
(Asynchronous Transfer Mode). Trên phía Internet, xu thế gia tăng năng lực điều 
khiển cuộc nối đơn giản, chẳng hạn Cisco đưa ra "Internetwork Operating 
System™" (IOS), hệ thống này chỉ cho các bộ định tuyến, các trạm chủ và các 
thiết bị mạng khác phải làm gì. 
Mục đích của cổng truy cập trong tình huống này là chuyển dịch sự khác biệt báo 
hiệu giữa các mạng, ứng dụng trên phía Internet có thể thiết lập cuộc gọi thoại trên 
mạng điện thoại sử dụng CTI hoặc ISUP nếu có thể. Ứng dụng đơn giản có thể 
thiết lập kết nối băng rộng, đa phương tiện trên các chuyển mạch ATM sử dụng 
TPCC. Trong các trường hợp khác, cổng truy cập cung cấp biến đổi thủ tục cần 
thiết như mô tả trên Hình 10 dưới đây. 
Hình 10. Điều khiển cuộc gọi/kết nối qua mạng 
7. Truy cập trung gian : các yêu cầu chức năng nền tảng 
Trong phần này sẽ nhấn mạnh một số đặc tính chức năng cần thiết để thiết kế truy 
cập trung gian hoặc nền tảng các ứng dụng cổng truy cập. 7.1. Môi trường phát 
triển các ứng dụng linh hoạt cao 
Nền tảng được chọn lựa cần đủ linh hoạt cho phép người phát triển ứng dụng sử 
dụng các chức năng cần thiết để thực hiện các ứng dụng cổng truy cập, truy cập 
trung gian. Ví dụ như người phát triển cần phải truy cập vào gần như từng tập thủ 
tục và bản tin; họ không thể bị cấm đối với các cách giải quyết mà các ứng dụng 
được thực hiện. Yêu cầu nền tảng vượt qua các câu hỏi được chấp nhận và gửi đi 
phản hồi. Trong các ứng dụng truy cập trung gian/cổng truy cập, các câu hỏi phải 
được chuyển đi từ điểm trung gian và điểm trung gian phải khởi tạo ra các cách 
giải quyết mới. 
7.2. Truy cập tệp đa thủ tục trên cùng ứng dụng 
Nền tảng cần tạo cho ứng dụng đơn sử dụng được tập đa thủ tục, nó cho phép cổng 
thủ tục được tạo nên. Như mô tả trên các Hình 3 và Hình 4, đó là ứng dụng nền 
tảng của các cổng truy cập. Nhằm cho các mạng khác nhau khả năng kết nối được 
với nhau, khả năng ấy cung cấp cho cổng biến đổi các thủ tục khác nhau là thiết 
yếu. 
7.3. Khả năng điều khiển chuyển dịch phức tạp 
Phần lớn các nền tảng SCP đã được thiết kế điều khiển các chuyển dịch cơ bản. 
Nói cách khác, chúng đã được thiết kế để chấp nhận c