1. Dẫn nhập
1.1. Quá trình hình thành và phát triển tiếng Việt, xét theo quan điểm giao lưu
(interchange) và tương tác (interaction), là quá trình tiếp xúc ngôn ngữ (TXNN). Ở
thời kì hình thành đó là sự giao lưu và tương tác giữa các thứ tiếng thị tộc, bộ lạc
hoặc liên minh bộ lạc để hợp thành hạt nhân của tiếng Việt. Bắt đầu thời kì phát
triển, cùng với các bước lưỡng phân
(1)
, là những giai đoạn tiếp xúc của tiếng Việt
với các ngôn ngữ ngoại lai - được hiểu như các thứ tiếng ngoài gia đình ngôn ngữ
Nam Á (AA) và Nam Thái (AT) (P.Benedict, 1996). Ở thời kì phát triển, sự tiếp
xúc ngôn ngữ Việt–Hán hay Việt–Trung (từ đây gọi chung Việt–Hán) là dài lâu
nhất và hình thái tiếp xúc cũng có nhiều kiểu loại nhất. (Xem thêm ở phần 2)
1.2. Trong bài viết này có mấy từ (ngữ) khoá sau đây được sử dụng: tiếp xúc ngôn
ngữ, ứng xử ngôn ngữ, yếu tố gốc Hán. Thuộc số đó có từ (ngữ) đã quen thuộc,
nhưng khi xuất hiện trong bài viết này một đôi trường hợp mang một sắc thái hơi
khác.
15 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán (phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán (phần 1)
1. Dẫn nhập
1.1. Quá trình hình thành và phát triển tiếng Việt, xét theo quan điểm giao lưu
(interchange) và tương tác (interaction), là quá trình tiếp xúc ngôn ngữ (TXNN). Ở
thời kì hình thành đó là sự giao lưu và tương tác giữa các thứ tiếng thị tộc, bộ lạc
hoặc liên minh bộ lạc để hợp thành hạt nhân của tiếng Việt. Bắt đầu thời kì phát
triển, cùng với các bước lưỡng phân(1), là những giai đoạn tiếp xúc của tiếng Việt
với các ngôn ngữ ngoại lai - được hiểu như các thứ tiếng ngoài gia đình ngôn ngữ
Nam Á (AA) và Nam Thái (AT) (P.Benedict, 1996). Ở thời kì phát triển, sự tiếp
xúc ngôn ngữ Việt–Hán hay Việt–Trung (từ đây gọi chung Việt–Hán) là dài lâu
nhất và hình thái tiếp xúc cũng có nhiều kiểu loại nhất. (Xem thêm ở phần 2)
1.2. Trong bài viết này có mấy từ (ngữ) khoá sau đây được sử dụng: tiếp xúc ngôn
ngữ, ứng xử ngôn ngữ, yếu tố gốc Hán. Thuộc số đó có từ (ngữ) đã quen thuộc,
nhưng khi xuất hiện trong bài viết này một đôi trường hợp mang một sắc thái hơi
khác.
Tiếp xúc ngôn ngữ là “sự tiếp giao nhau giữa các ngôn ngữ do những hoàn cảnh
cận kề nhau về mặt địa lí, tương liên về mặt lịch sử xã hội dẫn đến nhu cầu của các
cộng đồng người vốn có những thứ tiếng khác nhau phải giao tiếp với nhau” (O.S.
Akhmanova, 1966). TXNN còn được hiểu là “sự tác động qua lại giữa hai hoặc
nhiều ngôn ngữ tạo nên ảnh hưởng đối với cấu trúc và vốn từ của một hay nhiều
ngôn ngữ. Những điều kiện xã hội của sự TXNN được quy định bởi nhu cầu cần
thiết phải giao tiếp lẫn nhau giữa những thành viên thuộc các nhóm dân tộc và
ngôn ngữ do những nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội v.v. thúc đẩy”
(V.N.Jarceva, 1990). Với tình hình TXNN ở Việt Nam, cũng như với một số nước
từng có sự xâm lược và chiếm đóng của một thế lực ngoại quốc, ta còn có thể thêm
vào đoạn dẫn trên: nhu cầu giao tiếp giữa cư dân bản địa với những người thuộc bộ
máy cai trị và đội quân xâm lược hoặc chiếm đóng ngoại quốc. Trong hình thái
TXNN này, sự ứng xử ngôn ngữ của cư dân bản địa là vấn đề hết sức tế nhị. Trong
nhiều trường hợp nó làm nổi rõ bản sắc dân tộc của cả một nền văn hoá.
Ứng xử ngôn ngữ (Language Treatment) có nội dung khái niệm thuộc lĩnh vực xã
hội ngôn ngữ học. Cách diễn đạt này được xem là tương đương với Kế hoạch hoá
ngôn ngữ (Language Plan/Planning). Ứng xử ngôn ngữ là sản phẩm của những
quyết định có ý thức về sự lựa chọn mã (code) trong hoạt động giao tiếp (John
Gibbons, 1992 ). Ứng xử ngôn ngữ mang tính xã hội được thể hiện trong chính
sách ngôn ngữ của nhà nước hoặc một tổ chức xã hội. Chẳng hạn chính sách ngôn
ngữ hiện nay của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; chính sách
ngôn ngữ của Đảng Cộng sản Đông Dương được thể hiện trong Đề cương văn hoá
Việt Nam năm 1943. Ứng xử ngôn ngữ cũng có thể là sự lựa chọn của một người
về ngôn ngữ mà mình dùng trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn từ. Sự ứng xử
ngôn ngữ của mỗi người được quy định bởi nhiều nhân tố vừa khách quan vừa chủ
quan, trong đó nhân tố chủ quan có tính quyết định. Ứng xử ngôn ngữ là một thành
phần về ứng xử văn hoá. Do đó, truyền thống văn hoá, truyền thống ứng xử ngôn
ngữ của cộng đồng, của dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến thái độ ứng xử ngôn
ngữ của các thành viên trong cộng đồng.
Yếu tố gốc Hán không chỉ là những từ bắt nguồn từ tiếng Hán xưa nay được gọi là
từ Hán - Việt. Trong bài này yếu tố gốc Hán được hiểu là tất cả những đặc điểm
hoặc thành tố ngôn ngữ nào mà qua sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán tiếng Hán có
thể có ảnh hưởng đến tiếng Việt ở mặt này hay mặt khác. Chẳng hạn các đặc điểm
về ngữ âm, đặc điểm về cấu trúc ngữ pháp, các thành tố từ vựng ngữ nghĩa. Tuy
trong bài viết này các thành tố từ vựng ngữ nghĩa là ngữ liệu được đề cập đến
nhiều hơn, nhưng các phương diện khác của tiếng Hán cũng sẽ được nhắc đến khi
cần.
1.3. Trong nhiều trường hợp bài viết sử dụng các dẫn liệu ngôn ngữ rút từ những
công trình đã công bố và được thừa nhận rộng rãi của các tác giả khác cùng với
những ngữ liệu mà người viết bài này dùng trong các lập luận của mình. Đề cập
đến một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội - ngôn ngữ học, khi cần thiết chúng tôi cũng
đụng chạm đến những dẫn liệu thuộc các lĩnh vực ngoài ngôn ngữ để làm rõ thêm
cho những lập luận liên quan với hiện tượng nội tại ngôn ngữ.
2. Tiếp xúc ngôn ngữ Việt–Hán
2.1. Các giai đoạn tiếp xúc và đặc điểm
Trong khoa học nói đến thời kì hoặc giai đoạn tức là bàn về sự phân kì có tính lịch
đại (diachronic division of events into periods) về diễn tiến hay quá trình phát triển
của một hiện tượng, một sự kiện nào đó. Mỗi sự phân kì nhằm vào một/vài mục
đích nhất định và có tiêu chí định hướng cho sự phân kì. Sự phân kì hiện tượng
TXNN dựa vào các hình thái tiếp xúc, điều kiện xã hội - lịch sử và hệ quả mà sự
TXNN dẫn tới về mặt cấu trúc cũng như về chức năng xã hội của ngôn ngữ.
2.2. Theo các định hướng trên đây ta có thể hình dung sự phân chia quá trình tiếp
xúc Việt–Hán thành sáu giai đoạn (hoặc thời kì):
Giai đoạn hình thành nhà nước Văn Lang chuyển sang Âu Lạc.
Giai đoạn Triệu Đà sáp nhập lãnh thổ Âu Lạc vào Nam Việt.
Giai đoạn Nam Việt bị Đế quốc Hán khuất phục và lãnh thổ cũng như cư
dân Âu – Lạc (từ đây gọi một cách quy ước là Việt Nam)(2) trong cương vực
Nam Việt cũng bị đế quốc Hán thôn tính. Trong chính sử Việt Nam giai
đoạn này được gọi là Thời kì Bắc thuộc.
Giai đoạn nền độc lập (trong lịch sử có khi gọi là nền tự chủ) Việt Nam được
khôi phục và xây dựng nhà nước Việt Nam theo chế độ vương quyền.
Giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thiết lập chế độ thuộc địa
Pháp trên đất Việt Nam.
Giai đoạn Việt Nam giành quyền độc lập từ tay thực dân Pháp cho đến nay.
2.2.1. Có thể xem giai đoạn hình thành nhà nước Văn Lang (VL) và từ VL chuyển
sang nhà nước Âu - Lạc (ÂL) là khởi điểm quá trình TXNN trên miền đất Việt thời
kì mở cõi, dựng nước này. Đây là thời kì của các huyền thoại và giả thiết, giống
như ở bất kì dân tộc và đất nước nào trên thế giới. Vì vậy nơi đây tồn tại nhiều
truyền thuyết, huyền thoại và trên cơ sở đó mà các nhà nghiên cứu đã có những giả
thiết khác nhau về dân tộc Việt Nam hiện nay và về quá trình hình thành vùng khai
nguyên của Việt Nam hiện đại. Tiếp cận từ lí thuyết TXNN ta có thể hình dung
trước hết đó là quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ bản địa mà kết quả là sự hình
thành của tiếng Việt thời cổ(3). Tiếp theo đó là sự tiếp xúc với các thứ tiếng đến từ
ngoài vùng đất khai nguyên.
Về mặt này giả thiết mà K.W.Taylor đưa ra, theo tôi, là đáng chú ý hơn cả. Trong
sách Sự ra đời của Việt Nam, ngay trang đầu chương I, tác giả đã dựa vào truyền
thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân trong Lĩnh Nam Chích Quái (LNCQ) và Đại Việt
sử kí toàn thư (TT), để giải thích cuộc hôn phối giữa hai nhân vật huyền thoại này.
K.W. Taylor hình dung rằng Lạc Long Quân là một người dòng dõi đế vương vốn
ở phương bắc, Trung Hoa (A Monarch from the North, China...) từ biển xâm nhập
vào lục địa và khi nhận thấy nơi đây không có vua bèn xưng vương để cai quản.
Nhưng cư dân địa phương không chấp nhận và nhân vật ngoại bang này buộc phải
ra đi(4). Qua mối liên kết tượng trưng đó ta có thể hiểu: đây là sự tiếp xúc Việt–Hán
đầu tiên trong lịch sử. Có điều là giai đoạn tiếp xúc này ắt là không lâu bền và chưa
tạo nên tác dụng gì sâu sắc về mặt ngôn ngữ, nếu có.
Cách hình dung như K.W.Taylor, theo tôi, rõ ràng là có sức hấp dẫn, và cách hiểu
dựa vào sự hình dung ấy là hợp lô gích. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều thuộc
phạm trù huyền thoại và giả thuyết, gắn với giai đoạn dã sử, phải chờ đợi những cứ
liệu hiện thực chứng minh. Dẫn sao giả thuyết này cũng gợi cho ta một hướng suy
nghĩ lí thú.
2.2.2. Trong lịch sử Việt Nam giai đoạn Triệu Đà chinh phục và sáp nhập Âu Lạc
vào phạm vi quốc gia Nam Việt rồi chia đất đai Âu Lạc ra làm hai quận Giao Chỉ
và Cửu Chân được xác định là từ 179 đến 111 TCN. Vốn là con nhà tướng gốc
Hán, cuối đời nhà Tần, Triệu Đà lên thay Nhâm Ngao cầm quyền, rồi khi nhà Tần
bị diệt, tự xưng làm Nam Việt Vương. Việc Triệu Đà có thể tập hợp để làm chỗ
dựa cho quyền lực của mình những người Hán từ phía bắc di cư vào cương thổ này
(K.W.Taylor, tr.23-24; Phan Huy Lê, 1983, tr.234) chứng tỏ số lượng cư dân gốc
Hán ở đây đã có một số lượng đáng kể. Và với tư cách những thành phần cư dân
trong cùng phạm vi quốc gia Nam Việt, dĩ nhiên người dân Âu Lạc có quan hệ
giao tiếp với toàn bộ cư dân của quốc gia này, trong đó gồm cả bộ phận người Hán.
Sự giao tiếp này hẳn là có giới hạn. Lịch sử Việt Nam ghi nhận. Sứ giả nhà Triệu
tiến hành lập sổ cư dân Giao Chỉ, Cửu Chân... "Giúp việc sứ giả, có thể có một số
quan chức, cả Hán lẫn Việt” (sđd tr.234). Từ sự kiện đó có thể suy ra, đây là lần
đầu tiên sử sách ghi lại có sự TXNN Việt–Hán. Đặc điểm của sự TXNN Việt–Hán
trong giai đoạn này là nó được gộp trong bối cảnh tiếp xúc chung với các ngôn ngữ
trong “quốc gia li khai” Nam Việt, ở đó bao gồm các ngôn ngữ của các dân tộc
thuộc Bách Việt. Tiếng Hán lúc này một mặt là ngôn ngữ của giới cầm quyền và
mặt khác là tiếng nói của một nhóm dân di cư từ phương bắc tới. Sự cai trị của nhà
Triệu chưa kịp đụng chạm nhiều đến cơ cấu xã hội Âu Lạc trước đó. Do vậy ảnh
hưởng ngôn ngữ qua sự tiếp xúc có tính đa hướng hơn là song phương Việt–Hán
và chưa sâu sắc mấy.
2.2.3. Giai đoạn từ khi Nam Việt bị đế quốc Hán khuất phục trở đi trong sự phân kì
của các tác giả khác nhau có cách gọi không giống nhau đối với phần lãnh thổ và
cư dân trước đây thuộc Âu - Lạc. Với mục đích nghiên cứu của mình, tôi tán thành
cũng như dùng theo cách phân kì của John DeFrancis và gọi chung là giai đoạn
Bắc thuộc.
Đặc điểm của giai đoạn TXNN Việt–Hán này về mặt văn tự và tiếng nói đã được
John DeFrancis và Nguyễn Tài Cẩn chỉ rõ (Mặc dù Nguyễn Tài Cẩn chỉ giới hạn
“vào khoảng các thế kỉ 8,9”, TLTK đã dẫn, tr.8. H Maspéro chỉ ghi chung là trước
thế kỉ 10). Một đặc điểm khác về chính trị – xã hội nên được lưu ý là giai đoạn này
không phải diễn ra xuyên suốt, mà bị cách quãng bởi hai cuộc khởi nghĩa, đánh
đuổi quân xâm lược giành lại quyền độc lập.
1. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và Hai Bà Trưng lên ngôi các năm 40-43 Công
nguyên.
2. Cuộc khởi nghĩa Lí Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân (542-602) Giai đoạn
này chính sách Hán hoá của phương bắc ngày càng được đẩy mạnh và được các
quan thái thú thực hiện chính sách đó triệt để tại miền đất họ chiếm đóng. Số lượng
người Hán ở đây không chỉ có các quan chức trong bộ máy cai trị, đội quân chiếm
đóng, mà cả gia đình con em của họ. Ngoài ra còn có lớp người Hán theo chính
sách di dân cũng lần lượt kéo đến định cư nơi đây. Họ bao gồm những người lao
động thường, người có tay nghề thuộc các nghề nghiệp khác nhau. Dù hình thái cư
trú trên miền đất cùng chung sống này là thế nào (biệt lập của người Hán, kề cận
với các đơn vị hành chánh cư dân Việt, hay có mức độ sống xen kẽ nhất định) thì
cũng đều phải có sự giao tiếp Hán – Việt. Chính do đó mà sự TXNN Hán – Việt
trở nên ngày càng sâu sắc hơn. Hệ quả của sự TXNN này là trong sinh hoạt ngôn
ngữ và trong đời sống xã hội hình thành tình thế các cộng đồng Hán di cư đến kết
giao với các cộng đồng cư dân bản địa, tạo nên hình thái song ngữ song văn hoá
Việt–Hán.
2.2.4. Các giai đoạn tiếp theo của quá trình tiếp xúc Việt–Hán, tuy cách gọi của
John DeFrancis có ít nhiều không giống với những sự phân kì của H.Maspéro,
Nguyễn Tài Cẩn, D.J.Whitfield, nhưng ở ông các nhận xét về trạng huống ngôn
ngữ và văn tự hầu như không có gì khác. Trạng huống đó vào thời kì Bắc thuộc
(111 TCN đến 939 CN) là trong xã hội Việt Nam có hai ngôn ngữ Việt và Hán, và
một văn tự là chữ Hán hoạt động trên mọi lĩnh vực giao tiếp. Kế đến là:
1/ Giai đoạn độc lập, xây dựng chế độ vương quyền (939-1651) Hai ngôn ngữ:
Việt và Hán
Hai hệ thống văn tự: chữ Hán và chữ Nôm Chữ Hán được tiếp tục sử dụng với hình
thức Hán – Việt. Xây dựng chữ Nôm theo loại hình chữ ghi ý (ideographic).
2/ Giai đoạn độc lập dưới chế độ vương quyền và có một bộ phận cư dân theo công
giáo (1651-1861)
Hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Hán
Ba hệ thống văn tự: chữ Hán – Việt, chữ Nôm và chữ La tinh hoá, tức là dùng hệ
chữ viết La tinh ghi tiếng Việt.
3/ Giai đoạn trở thành thuộc địa Pháp (1861-1945)
Ba ngôn ngữ: tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp
Bốn hệ thống văn tự: chữ Hán–Việt, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.
4/ Giai đoạn độc lập dân tộc, từ 1945 đến nay
Một ngôn ngữ: tiếng Việt
Một văn tự: chữ Quốc ngữ.
(John DeFrancis, xem phần Mục lục)
Điều đáng nhấn mạnh là, tuy mức độ có khác nhau, nhưng sự TXNN Việt–Hán vẫn
tiếp tục ở tất cả các giai đoạn đã nêu. Trên cơ sở đó mà chúng ta có thể thảo luận
về thái độ ứng xử ngôn ngữ của các thế hệ người Việt Nam qua các giai đoạn lịch
sử TXNN.
________________
(1) Trong bài Thử phân kì lịch sử thế kỉ 12 của tiếng Việt; tác giả Nguyễn Tài Cẩn
viết: “Tiếng Việt có một lịch sử chỉ khoảng hơn 12 thế kỉ. Sự hình thành tiếng Việt
là một kết quả của 2 bước lưỡng phân, một trước, một sau. Bước lưỡng phân đầu là
bước chia ngôn ngữ mẹ Proto – Việt – Chứt thành hai nhánh: nhánh Việt – Mường
ở phía bắc và nhánh Pọng – Chứt ở phía Nam... Ảnh hưởng của tiếng Hán không
những mạnh ở Bắc hơn Nam mà ở đồng bằng sông Hồng cũng mạnh hơn ở miền
núi. Do đó lại nảy sinh một bước lưỡng phân thứ hai bắt đầu từ khoảng thế kỉ 18,
tạo ra sự đối lập giữa hai ngôn ngữ mới, một bên là Proto Việt, một bên là Proto
Mường" (N.T.Cẩn, 1998, tr.7)
(2) Trong lịch sử, tuỳ từng thời kì lịch sử tên gọi chỉ nước Việt Nam hiện nay có sự
thay đổi Giao Châu, Giao Chỉ, Đại Cồ Việt, Đại Việt... Tên gọi Việt Nam về sau
mới xuất hiện. Tuy nhiên, để tiện cho việc trình bày, trong bài này chúng ta có thể
lấy tên gọi Việt Nam mà hiện nay đang dùng để đại diện chung cho tất cả các tên
gọi có trước, nếu không có nhu cầu phân biệt chính xác.
Thảo luận về đề tài này, chúng tôi sử dụng các công trình của một số tác giả. Ở
những công trình đó, căn cứ vào những chỗ dựa ít nhiều khác nhau, các tác giả đã
đề nghị cách phân kì tuỳ theo sự tiếp cận của mình.
I. Dựa vào sự hình thành tiếng Hán–Việt, cuốn An Nam dịch ngữ và cuốn từ điển
Alexandre de Rhode (1651), H.Maspéro chia thành:
A) Proto Việt trước thế kỉ 10
B) Việt tiền cổ: thế kỉ 10 (hình thành tiếng Hán - Việt)
C) Việt cổ: thế kỉ 15 (An Nam dịch ngữ)
D) Việt trung đại: thế kỉ 17 (từ điển A.de Rhôde 1651)
E) Việt hiện đại: thế kỉ 19
(Dẫn lại theo Nguyễn Tài Cẩn, 1998, tr.8)
II. Dựa vào thế tương tác giữa các ngôn ngữ, văn tự có sự tiếp xúc với nhau trong
mỗi giai đoạn N.T.Cẩn (1998) có bảng phân kì:
A)
Giai đoạn
Proto Việt
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu
ngữ của lãnh đạo) và tiếng Việt; 1
văn tự: chữ Hán
Vào khoảng các thế
kỉ 8, 9.
B)
Giai đoạn
tiếng Việt
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt (khẩu
ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn
Hán; 1 tiền cổ văn tự: chữ Hán
Vào khoảng các thế
kỉ 10,11,12
C)
Giai đoạn
tiếng Việt cổ
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn
ngôn Hán; 2 văn tự: chữ Hán và
chữ Nôm
Vào khoảng các thế
kỉ 13, 14, 15, 16
D)
Giai đoạn
tiếng Việt
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn
ngôn Hán; 3 văn tự: chữ Hán và
Vào khoảng các thế
kỉ 17, 18 và nửa đầu
trung đại chữ Nôm và chữ Quốc ngữ thế kỉ 19
E)
Giai đoạn
tiếng Việt
cận đại
Có 2 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng
Việt và văn ngôn Hán; 4 văn tự:
Pháp, Hán, Nôm, Quốc ngữ
Vào thời gian Pháp
thuộc
G)
Giai đoạn
tiếng Việt
hiện nay
Có 1 ngôn ngữ: tiếng Việt; 1 văn
tự: chữ Quốc ngữ
Từ 1945 trở đi
III. John DeFrancis (1977) trong Colonialism and Language Policy dựa vào sự thể
hiện chính sách ngôn ngữ từ 111 TCN trở đi chia sự phát triển tiếng Việt thành 4
giai đoạn với các đặc điểm về trạng huống ngôn ngữ và văn tự khác.
IV. Keith W.Taylor (1983) trong sách The Birth of Vietnam, tuy không trực tiếp đề
cập đến sự phân kì về quan hệ tiếp xúc Hán - Việt nhưng những cứ liệu của tác giả
này về thời kì hình thành Việt Nam trước khi bị đế quốc Hán xâm chiếm và đặt ách
thống trị cũng có nhiều cứ liệu và ý tưởng soi sáng cho sự tiếp xúc ngôn ngữ Việt–
Hán.
(3). Cách dùng “tiếng Việt thời cổ” ở đây được hiểu như tiếng nói của “người Việt
Cổ” (L.sử I) về hạt nhân đầu tiên của tiếng Việt hiện đại mà ngành ngôn ngữ học
lịch sử Việt Nam chưa có những công trình nghiên cứu vượt khỏi các giả thuyết.
(4). Theo Taylor, qua huyền thoại Âu Cơ–Lạc Long Quân ta có thể biết về quan
niệm trong dân gian xưa về quan niệm huyết thống giữa các vua Hùng và Lạc
Long Quân (LLQ). LLQ từ phía biển thâm nhập vào đồng bằng sông Hồng. Đến
đây LLQ chế phục “các yêu quái” trong miền rồi khai hoá họ, dạy họ trồng trọt, bắt
đầu biết ăn mặc. Sau đó trở về biển cả và dặn lại rằng khi nào gặp nguy khó thì hãy
lên tiếng và LLQ sẽ trở lại Rất có thể Lạc Long Quân là hoàng tử xứ biển cả và
Âu Cơ là một Mị Nương của vùng núi đồi. Khi Lạc Long Quân ra đi, Mị Nương ở
lại và sinh hạ các vua Hùng. Người Việt Nam đời nối đời xem Lạc Long Quân và
Âu Cơ là tổ tiên của mình.
Taylor viết tiếp: Huyền thoại bao quanh câu chuyện Lạc Long Quân và Hùng
Vương ngụ ý về một nền văn hoá từ đất liền hướng ra phía biển. LLQ là nhân vật
văn hoá mang nền văn minh đến từ biển. Nhân vật này chạm trán với quyền lực từ
đất liền, liên kết với đối thủ ấy bằng một cuộc hôn nhân và cuối cùng kẻ vốn là đối
thủ trở thành mẹ của người thừa kế mình. Chủ đề về nhân vật văn hoá bản địa có
cách ứng xử để vô hiệu hoá sự đe doạ từ phương bắc bằng cách dung hợp cội
nguồn chính thống của nền văn minh ấy cũng phù hợp với mối quan hệ lịch sử
giữa Việt Nam và Trung Quốc (K.W.Taylor, 1977, tr.1).