Thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt
3.1. Không giống như một số quốc gia hoặc dân tộc khác, thái độ ứng xử ngôn ngữ
của các thế hệ người Việt không bị ảnh hưởng của chính sách do bộ máy cai trị của
thế lực chiếm đóng ngoại bang hoặc tâm lí dân tộc cực đoan. Ngược lại, theo ý
chúng tôi, thái độ ứng xử đó được chi phối bởi tiềm thức về nhu cầu giao tiếp xã
hội. Tiềm thức này ngày càng tăng do thực tiễn giao tiếp xã hội cho thấy giá trị
đích thực của các yếu tố gốc Hán, nói chung là tiếng Hán, chứ không phải do sự áp
đặt, ép buộc từ một chính sách của lực lượng chiếm đóng.
8 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán (phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán (phần 2)
3. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt
3.1. Không giống như một số quốc gia hoặc dân tộc khác, thái độ ứng xử ngôn ngữ
của các thế hệ người Việt không bị ảnh hưởng của chính sách do bộ máy cai trị của
thế lực chiếm đóng ngoại bang hoặc tâm lí dân tộc cực đoan. Ngược lại, theo ý
chúng tôi, thái độ ứng xử đó được chi phối bởi tiềm thức về nhu cầu giao tiếp xã
hội. Tiềm thức này ngày càng tăng do thực tiễn giao tiếp xã hội cho thấy giá trị
đích thực của các yếu tố gốc Hán, nói chung là tiếng Hán, chứ không phải do sự áp
đặt, ép buộc từ một chính sách của lực lượng chiếm đóng.
3.2. Ứng xử ngôn ngữ đầu tiên của người Việt được quy định, có thể nói, một cách
khách quan bởi nhu cầu giao tiếp với lớp người Hán di cư vào đất Việt. Trong Sự
ra đời của Việt Nam, K.W. Taylor tỏ ra khách quan khi có nhận xét đại ý: Không
phải tất cả người Hán di cư đến miền đất Âu Lạc trước đây đều thuộc tầng lớp
quan quyền. Nhiều di dân là lính tráng (ở lại sau khi mãn hạn lính), những người
lao động bình thường, những người thợ có tay nghề. Tầng lớp di dân ở vị trí xã hội
thấp này có xu hướng kết nhập với giới xã hội người Hán còn ở lại làm ăn sinh
sống sau cuộc hành quân Mã Viện. Nhiều người Hán di cư có xu hướng kết hợp
giá trị Hán chính thống của họ với các đặc điểm xã hội tại chỗ. Điều này được thể
hiện trên thực tế bằng các cuộc hôn nhân hỗn hợp và các hoạt động của người Hán
di cư với tư cách đại diện cho cộng đồng từng khu vực trong các cuộc khởi nghĩa
địa phương nổ ra vào thế kỉ thứ hai.
Hoàn toàn có lí khi cho rằng người Hán di cư dần dần trở thành các thành viên
thuộc xã hội tại chỗ. Họ gầy dựng cuộc sống của riêng mình theo mô thức văn hoá
Hán. Họ mang đến Việt Nam vốn từ ngữ và kĩ thuật Hán, nhưng họ phát triển tất
cả theo quan điểm riêng, dựa rất nhiều vào di sản thuộc miền đất họ đến sinh sống.
Tiếng Việt tiếp tục tồn tại, và lẽ đương nhiên là sau một vài thế hệ, con cháu người
Hán di cư nói tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong giao tiếp. Xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ, có thể nói, hầu như tách biệt hoàn toàn với văn minh Hán, và xã hội Hán–Việt
tồn tại như một chi thể của thế giới văn hoá tự trị. Người Hán di cư trải qua quá
trình “Việt Nam hoá” một cách có hiệu quả hơn (more effectively) là người Việt
Nam bị Hán hoá (John DeFrancis, p.53).
Về phần mình, ngoài sự giao tiếp và quy hợp ở các tầng lớp dưới của xã hội, một
số nhân vật ở tầng lớp trên do yêu cầu của hoàn cảnh hoặc chức trách, cũng có thể
do chủ động, tiếp xúc ngày càng sâu bền hơn với ngôn ngữ, văn tự và nói chung là
văn hoá Hán. Đó là khi các Thái thú Hán, bắt đầu từ Sĩ Nhiếp, cho mở trường dạy
học. Đầu tiên người học ở các trường này chủ yếu là con em quan chức Hán, kế đó
trường cũng dần dần thu nhận thêm viên chức Việt; và cuối cùng con em các gia
đình Việt khá giả cũng được đến học. Từ cơ hội ấy mà dần dần hình thành tầng lớp
trí thức Việt xuất thân từ Hán học, trong số này đã có những nhân tài xuất hiện. Và
“Như thế nhân tài nước Việt cũng được tuyển dụng như người Hán, mở đầu là Lí
Cầm, Lí Tiến” (Dẫn theo bản dịch tiếng Việt: Đại Việt sử kí toàn thư, Hà Nội,
1983, tr.182)(5).
3.3. Sau thời Bắc thuộc, sang giai đoạn tự chủ xây dựng chế độ vương quyền của
mình, các triều đại phong kiến Việt Nam dùng tiếng Hán–Việt, chữ Hán như ngôn
ngữ và văn tự văn hoá đương nhiên của Việt Nam. Dấu chỉ của thực tế đó là những
văn kiện chính thức hoặc huyền thoại, cắm mốc cho các sự kiện lịch sử, đều bằng
tiếng Hán–Việt và ghi lại bằng chữ Hán: Chiếu dời đô của Lí Thái Tổ, bài thơ thần
Nam quốc sơn hà vang vọng trên bờ sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ của Trần
Hưng Đạo, và Bình Ngô đại cáo và Quân trung từ mệnh tập dưới ngòi bút của
Nguyễn Trãi thời Lê. Trong lĩnh vực phục hưng nền văn hoá dân tộc tiếng Hán–
Việt và chữ Hán là công cụ để ông cha ta thời Lí – Trần xây dựng cả một gia tài
văn học chữ Hán đồ sộ. Nền giáo dục cổ điển Việt Nam bắt đầu từ triều Lí (1076)
cũng được xây dựng theo mô hình Nho học, ngôn ngữ dùng trong giáo dục cũng là
tiếng Hán–Việt và chữ Hán. Các học quan, thày dạy đều xuất thân từ Hán học. Nền
giáo dục này góp phần chủ yếu đào tạo nên các thế hệ trí thức hoạt động trên mọi
lĩnh vực của đời sống một quốc gia độc lập thời phong kiến Việt Nam tồn tại mãi
đến triều Nguyễn.
Nếu khảo sát hệ thống từ ngữ dùng trong quá trình xây dựng chế độ phong kiến
Việt Nam – từ tên gọi các cơ chế tổ chức, hệ thống quan chức, hệ thống luật pháp
v.v. – ta có thể thấy số từ ngữ Hán–Việt chiếm phần lớn. Đó cũng là tình hình
trong lĩnh vực khoa học quân sự, lĩnh vực kinh tế và nhiều ngành khoa học xã hội
khác. Nói tóm lại trong giai đoạn này tiếng Hán và chữ Hán là ngôn ngữ và văn tự
của nền hành chánh và của giới trí thức Việt Nam giống như tiếng Hi lạp và La
tinh đối với xã hội Châu Âu thời kì tiền hiện đại. Trong quá trình đó người Việt
Nam vừa sử dụng vừa chọn lọc từ vốn từ ngữ vay mượn ấy để làm phong phú cho
ngôn ngữ và văn hoá của mình.
3.4. Một trong những biểu hiện thành công của quá trình tiếp biến văn hoá và
TXNN Việt–Hán là sự xây dựng chữ Nôm Việt Nam (khoảng thế kỉ 13). Từ thành
công đó một nền văn học Hán–Nôm ra đời tiếp tục giai đoạn văn học cổ điển sáng
tác chỉ bằng tiếng Hán–Việt và chữ Hán. Các nhà văn hoá Việt Nam xuất thân từ
Hán học là tác gia lớn, vừa có tác phẩm bằng tiếng Hán–Việt, chữ Hán, vừa sáng
tạo những kiệt tác bằng tiếng Việt và chữ Nôm như Nguyễn Trãi, Nguyễn Hữu
Hào, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Họ cùng với đông đảo tác giả khuyết danh
của các truyện thơ Nôm làm phong phú cho kho tàng văn chương chữ Nôm, góp
phần chung vào dòng văn học Hán–Nôm xuất hiện từ thế kỉ 15 trở đi. Hiện tượng
văn hoá ấy là một bước phát triển mới của thái độ ứng xử ngôn ngữ đúng đắn ở
người Việt Nam.
3.5. Có chữ Nôm, rồi chữ Quốc ngữ được chế tác và được điển chế hoá dần bằng
các từ điển, sách ngữ pháp(6), số người biết chữ Quốc ngữ ngày càng tăng, đầu tiên
là trong giáo dân, trong nhà thờ công giáo. Tiếp đến là các viên chức trong bộ máy
của chính quyền thuộc địa. Từ đầu thế kỉ 20 chính quyền thuộc địa có quyết định
bãi bỏ nền giáo dục cựu học. Hệ thống giáo dục tân học, tức theo mô hình hiện đại
Tây phương được thiết lập từng bước trên toàn cõi Việt Nam. Giới trí thức tân học
Việt Nam lần lượt tăng lên về số lượng và chất lượng và dần dần chiếm ưu thế
trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà đã có lời than:
Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông nghè ông cống cũng nằm co...
Nhưng nhìn vào tầng sâu của văn hoá xã hội Việt Nam thì không phải như vậy.
Những trí thức cựu học như Nguyễn Lộ Trạch, Trần Quý Cáp, Lương Văn Can,
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... vẫn là những đại thụ về
mặt tinh thần trong xã hội. Chữ Hán, tiếng Hán vẫn tiếp tục được các vị ấy sử dụng
để trước tác nhằm giáo dục tinh thần yêu nước của đồng bào (Hải ngoại huyết thư),
bàn thảo về những điều làm cho dân giàu, nước mạnh (Thiên hạ đại thế luận), bảo
vệ nền văn hoá dân tộc.
Trong quá trình tiếp nhận nền giáo dục theo kiểu mới để xây dựng nền khoa học kĩ
thuật cho mình các trí thức tân học, cũng không phải vì thế mà bỏ quên vốn quý có
nguồn gốc Hán. Tiêu biểu cho thái độ ứng xử ngôn ngữ này là cố GS. Hoàng Xuân
Hãn với đề nghị của ông nên “lấy gốc chữ Nho” làm một trong ba “phương sách
đặt danh từ khoa học”. Phương sách ấy hiện nay vẫn còn nguyên giá trị và trở
thành một trong những quy tắc xây dựng thuật ngữ khoa học kĩ thuật đang phát
triển rất nhanh chóng ở nước ta và khoa học kĩ thuật Việt Nam ngày càng tiếp cận
nhiều với khoa học kĩ thuật qua các ngôn ngữ Ấn - Âu.
3.6. Về thái độ ứng xử ngôn ngữ của người Việt đối với các yếu tố gốc Hán, nhân
vật văn hoá tiêu biểu nhất là chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta. Trên cơ sở của
truyền thống văn hoá Hán học của gia đình, Người bước vào lịch sử hấp thụ thêm
nguồn học vấn phương Tây, tích luỹ sự hiểu biết từ tinh hoa của nhiều dân tộc,
nhiều đất nước trên bước đường hoạt động cách mạng. Dầu vậy, trong quá trình
tiếp thu những bài học cách mạng từ Người, những lời giáo huấn của Người, và
nhất là đọc các tác phẩm trong di sản của Người, chúng ta luôn luôn cảm nhận
được qua vốn văn hoá đa dạng đó, tinh hoa văn hoá, tinh hoa ngôn ngữ Hán được
Người tinh lọc, tiếp biến thành các giá trị Việt Nam. Trong tù Người viết Ngục
trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Người dùng danh ngôn, tục ngữ Hán khi trao đổi ý
kiến với các bậc đại nho Việt Nam. Trong kháng chiến Người cũng đã có những
bài thơ tuyệt tác viết bằng chữ Hán. Thái độ ứng xử ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với các yếu tố gốc Hán là lĩnh vực có ý nghĩa khoa học lớn, vượt ngoài
khuôn khổ bài viết nhỏ này và phải là một đề tài nghiên cứu riêng.
_____________
(5) Lí Cầm là người Giao Châu, đậu tiến sĩ, làm quan đến Tư lệ hiệu uý. Lí Tiến đậu
tiến sĩ, là người Giao Chỉ đầu tiên giữ chức thứ sử năm 187 CN, dưới triều Hán.
(6) Cuốn Từ điển Việt–Bồ–La, có phần giới thiệu về cơ cấu tiếng Việt ở đầu sách do
A.de Rhode biên soạn và ấn hành năm 1651 là công trình đầu tiên. Từ đó dần dần
loại sách này ngày càng xuất hiện nhiều hơn để cung ứng cho nhu cầu học chữ
Quốc ngữ, học tiếng Việt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. O.S. Akhmanova (1969). Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học (bằng tiếng
Nga). Nxb Từ điển Bách khoa Xô viết Moskva.
2. Paul Benedict (1996). Interphyla Flow in Southeast Asia, In Proceeding of
the Forth. International Symposium on Languages and Linguistics. 8 - 10,
1996. Vol. V, pp.1579-1590.
3. Bùi Khánh Thế (2000). Tiếp xúc ngôn ngữ Việt - Hán và hệ quả tích cực
của quá trình đó đối với sự phát triển tiếng Việt. Kỉ yếu Hội thảo Việt–
Trung.
4. John DeFrancis (1977). Colonialism and Language Policy in Vietnam.
Monton Publishers - The Hague, Paris. New York.
5. John Gibbons (1992). Sociology of Language. In International
Encyclopedia of Linguistics, Vol.4, pp.22-24, William Bright (Editor in
Chief).
6. Hứa Tuyên (1994). Sơ lược về việc sử dụng chữ Hán ở Việt Nam và Đông
Á.
7. V.N.Jarceva (chủ biên, 1990). Từ điển bách khoa về ngôn ngữ học (bằng
tiếng Nga). Nxb Từ điển Bách khoa Xô Viết Moskva.
8. Nguyễn Đình Đầu (1997). Công lao của G.S Hoàng Xuân Hãn trong quá
trình xây dựng và hoàn chỉnh nền quốc học nước ta bằng chữ quốc ngữ và
tiếng Việt. Trong Kỉ yếu Hội nghị khoa học: Chữ quốc ngữ và sự phát triển
chức năng xã hội của tiếng Việt, tháng 3/1997, tr.174-184.
9. Nguyễn Tài Cẩn (1998). Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt. Tạp
chí Ngôn ngữ, số 6/1998, tr.7-12.
10. Tập san khoa học, A.Annals of HCM University, số 1/1994.
11. Keith Weller Taylor (1983). The Birth of Vietnam. University of California
Press, Berkeley, Los Angeles - Oxford.
12. Danny J.Whitfield (1976). Historical and Cultural Dictionary of Vietnam.
The Scarecrow Press, Inc. Metuchen, N.J.