Thành công thật sự ngoạn mục của công nghệ gen thực vật bậc cao là tái sinh được
cây chuyển gen (transgenic plant) đầu tiên vào đầu thập niên 1980. Đến nay, cây trồng biến
đổi gen (genetically modified plant) đã và đang đóng góp rất nhiều trong việc đáp ứng nhu
cầu lương thực và thực phẩm cho con người. Công nghệ gen hiện đang được sử dụng như
một phương pháp sinh học hiện đại để nghiên cứu cải thiện di truyền các giống cây trồng
và vật nuôi.
Một trong những hướng nghiên cứu gần đây của công nghệ gen là chuyển gen ngoại
lai (foreign gene) vào thực vật với mục đích tạo ra kháng nguyên (antigent) để sản xuất các
vaccine thực phẩm (edible vaccine) phòng bệnh cho người và động vật. Vaccine thực phẩm
hay vaccine dựa trên cơ sở thực vật (plant-based vaccine) là một mô hình lý tưởng cho các
nước nghèo do có thể khắc phục các khó khăn của vaccine nhược độc được sản xuất theo
phương pháp truyền thống (có khả năng quay trở lại dạng độc hoặc hoạt lực của nó giảm
khá nhanh trong cơ thể người và vật nuôi) hoặc vaccine DNA tái tổ hợp (giá thành cao,
điều kiện bảo quản và vận chuyển nghiêm ngặt, cần có kỹ thuật viên tiêm chủng).
11 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2941 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vaccine thực phẩm-Loại vaccine thế hệ mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vaccine thực phẩm-Loại vaccine thế hệ mới
Nguyễn Hoàng Lộc
Viện Tài nguyên, Môi trường và Công nghệ sinh học, Đại học Huế
1. Mở đầu
Thành công thật sự ngoạn mục của công nghệ gen thực vật bậc cao là tái sinh được
cây chuyển gen (transgenic plant) đầu tiên vào đầu thập niên 1980. Đến nay, cây trồng biến
đổi gen (genetically modified plant) đã và đang đóng góp rất nhiều trong việc đáp ứng nhu
cầu lương thực và thực phẩm cho con người. Công nghệ gen hiện đang được sử dụng như
một phương pháp sinh học hiện đại để nghiên cứu cải thiện di truyền các giống cây trồng
và vật nuôi.
Một trong những hướng nghiên cứu gần đây của công nghệ gen là chuyển gen ngoại
lai (foreign gene) vào thực vật với mục đích tạo ra kháng nguyên (antigent) để sản xuất các
vaccine thực phẩm (edible vaccine) phòng bệnh cho người và động vật. Vaccine thực phẩm
hay vaccine dựa trên cơ sở thực vật (plant-based vaccine) là một mô hình lý tưởng cho các
nước nghèo do có thể khắc phục các khó khăn của vaccine nhược độc được sản xuất theo
phương pháp truyền thống (có khả năng quay trở lại dạng độc hoặc hoạt lực của nó giảm
khá nhanh trong cơ thể người và vật nuôi) hoặc vaccine DNA tái tổ hợp (giá thành cao,
điều kiện bảo quản và vận chuyển nghiêm ngặt, cần có kỹ thuật viên tiêm chủng). Nguyên
lý cơ bản của mô hình vaccine thực phẩm là chuyển một loại gen đặc biệt vào tế bào thực
vật. Loại gen này hoạt động trong cơ thể cây trồng, sẽ biến thành nơi sinh ra protein kháng
nguyên. Khi những kháng nguyên này đi vào cơ thể người thông qua ăn uống (dưới dạng
tươi sống không nấu chín, nếu không sẽ làm mất hoạt tính kháng nguyên) thì hệ thống
miễn dịch của người sẽ tự động sinh ra kháng thể để chống lại kháng nguyên. Như vậy là
đã thay việc tiêm chủng vaccine bằng việc ăn những hoa quả hoặc rau xanh có kháng
nguyên. Vaccine thực phẩm có nhiều ưu điểm như: giá thành rẻ, ổn định, dễ sản xuất trên
quy mô lớn, dễ quản lý, không cần tinh sạch, bảo quản lâu và dễ vận chuyển…
Một trong những nghiên cứu đã được công bố gần đây trong lĩnh vực kể trên đó là
gây miễn dịch trong cơ thể người bằng vaccine thực phẩm để điều trị bệnh viêm gan B.
Loại cây trồng được sử dụng để chuyển gen viêm gan B là khoai tây (Solanum tuberosum).
Người ta hy vọng khi ăn loại khoai tây này, chất kháng nguyên sẽ gây ra một phản ứng
miễn dịch nhẹ trong cơ thể người. Từ đó, cơ thể người sẽ tạo ra chất miễn dịch cá thể đối
với căn bệnh lây nhiễm viêm gan B. 42 nhân viên chăm sóc sức khỏe ở độ tuổi 25-58 đã
tham gia vào cuộc nghiên cứu. Trong đó, 33 người được chỉ định ăn khoai tây chuyển gen
mà không có tá dược, một chất làm tăng khả năng phản ứng miễn dịch. Chuẩn độ kháng
nguyên kháng virus viêm gan B trong huyết thanh được đo trong một số lần nhất định mỗi
ngày. Kết quả cho thấy đối với những người ăn khoai tây không chuyển gen các chuẩn độ
không tăng, trong khi đó 19 trong số 33 người ăn khoai tây chuyển gen thì chuẩn độ tăng
57,6%, trong khi vaccine hiện có trên thị trường có tác dụng tới 90% đối tượng, kể cả khi
có chứa tá dược (TLTK).
2. Công nghệ sinh học và chuyển gen thực vật
Công nghệ gen là chìa khóa vàng để phát triển các lĩnh vực công nghệ sinh học.
Những thành tựu về cây trồng biến đổi gen trên thế giới không chỉ giới hạn trong lĩnh vực
nông nghiệp, tạo ra những mùa màng bội thu, giải quyết nạn đói toàn cầu mà còn có thể
sản xuất ra các loại biệt dược chữa được các bệnh hiểm nghèo cho con người. Ứng dụng
công nghệ sinh học để sản xuất những dược phẩm tổng hợp trong thực vật đã phát triển
mạnh vào những năm 1990, chẳng hạn: các thành phần của máu như huyết cầu tố, albumin,
2
các kháng thể, hormone, các yếu tố đông máu được sản xuất từ cây thuốc lá biến đổi gen
(Goldstein và Thoman 2004). Nhiều công trình đã công bố về chuyển gen vào cây trồng để
tạo vaccine thực phẩm như: vaccine phòng bệnh viêm gan B (Thanavala và cs 1995), và
vaccine phòng bệnh tả được sản xuất từ cây khoai tây (Arakawa và cs 1997). Kang và cs
(2003), Kim và cs (2004) đã sử dụng Agrobacterium tumefaciens để chuyển gen CTB
(cholera toxin B subuint) vào cây thuốc lá (Nicotiana tabacum) và gen HIV-1 gp120 V3
vào khoai tây. Daniell và cs (2001a) đã chuyển gen CTB vào cây thuốc lá bằng phương
pháp dội bom (bombardment).
Hiện nay, chuyển gen đã được thực hiện ở trên 120 loài thực vật thuộc khoảng 35 họ
bao gồm các cây trồng nông nghiệp, rau quả, cây cảnh, cây dược liệu, cây ăn trái và cây cỏ
bằng các phương pháp chuyển gen trực tiếp hay gián tiếp. Chuyển gen trực tiếp là các
phương pháp chuyển gen nhờ các tác nhân vật lý và hóa học, DNA được biến nạp vào
trong protoplast, tế bào, mô hoặc cơ quan nhờ các phương pháp như vi tiêm
(microinjection), xung điện (electroporation), súng bắn gen (gene gun), silicon carbide,
siêu âm (ultrasonic)... Tuy nhiên, phương pháp thông dụng hơn cả là chuyển gen gián tiếp
nhờ vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens, vi khuẩn này được sử dụng như các vector tự
nhiên để mang các gen ngoại lai vào tế bào thực vật. Agro. tumefaciens chứa một plasmid
lớn có kích thước khoảng 200 kb (gọi là Ti-plasmid) có cấu trúc mạch vòng bao gồm
những vùng quan trọng như vùng T-DNA, vùng gây độc (vir), vùng khởi đầu sao chép
(ori). Trong kỹ thuật chuyển gen, vùng T-DNA của Ti-plasmid được thiết kế để gắn những
gen ngoại lai mong muốn, các phần còn lại của nó được giữ nguyên.
T-DNA là một đoạn DNA có kích thước 25 kb trong đó chứa gen mã hóa sinh tổng
hợp auxin, cytokinin và opine. Hoạt động của vùng vir đóng vai trò quan trọng cho việc
chuyển T-DNA sang tế bào thực vật. Vùng này có kích thước khoảng 40 kb, bao gồm 6
operon: virA, virB, virD và virG cần thiết cho việc tạo ra độc tính; virC và virE liên quan
đến việc hình thành khối u. Trong quá trình chuyển T-DNA, đoạn T-DNA muốn chuyển
được trước tiên phải được hoạt hóa, chính hoạt động của gen vir đóng vai trò này. Hiện
tượng hoạt hóa xảy ra khi Agrobacterium bắt đầu tiếp xúc với hợp chất chứa phenol được
tiết ra từ vết thương của cây hoặc từ các tế bào nuôi cấy hay protoplast. Các sản phẩm
protein của vùng vir có tác dụng trong việc dẫn truyền T-DNA từ vi khuẩn vào tế bào thực
vật. Các loại protein đó cần thiết cho quá trình cắt T-DNA khỏi Ti-plasmid, cảm ứng thay
đổi tính chất của màng tế bào thực vật mà chúng tiếp xúc, tham gia di chuyển phần T-DNA
qua màng vi khuẩn tới tế bào chất của tế bào thực vật, vận chuyển tới nhân rồi cuối cùng
xâm nhập vào genome của tế bào cây chủ. Việc chuyển gen vào thực vật thông qua A.
tumefaciens đã thực hiện thành công trên nhiều loại cây trồng như thuốc lá, cà chua, đậu
tương, lúa, mía…
3. Vaccine và vaccine thực phẩm
Những tiến bộ về khoa học và kỹ thuật trong lĩnh vực vi sinh vật học, hóa sinh
protein nói chung, cũng như trong lĩnh vực kỹ thuật gen và công nghệ sinh học nói riêng đã
cho phép chúng ta tiến xa hơn, đi sâu hơn và ứng dụng hiệu quả hơn những thành tựu đó
trong nhiều ngành công nghệ mới, trong đó có công nghệ sản xuất và ứng dụng vaccine.
Đề cập đến vaccine, phải nói đến yếu tố quyết định kháng nguyên của chế phẩm được chọn
làm vaccine đó. Yếu tố quyết định kháng nguyên chính là thành phần protein kháng
nguyên có trên bề mặt của tác nhân gây bệnh, hay trên bề mặt của chế phẩm vaccine của
chính tác nhân gây bệnh đó. Vaccine truyền thống hay vaccine tái tổ hợp là các chế phẩm
sinh học của vi sinh vật được làm giảm độc lực, không còn khả năng gây bệnh đối với đối
tượng nhận vaccine. Khi đưa vaccine vào cơ thể bằng các phương pháp khác nhau, chúng
3
đều có khả năng kích thích cơ thể sinh miễn dịch. Khi cơ thể chịu sự kích thích của kháng
nguyên, sẽ cảm ứng sản xuất ra một loại protein mới có chức năng bảo vệ gọi là kháng thể
(antibody). Thời gian gần đây người ta vẫn sử dụng vaccine sống nhược độc làm kháng
nguyên để kích thích tạo kháng thể cần thiết trong cơ thể người và vật nuôi. Hiện nay, bằng
công nghệ DNA tái tổ hợp người ta đã sản xuất được protein vỏ của một số loại virus như
virus bệnh lở mồm long móng, bệnh dại và viêm gan B. Tuy nhiên, vaccine được sản xuất
theo phương pháp trên có giá thành cao, điều kiện bảo quản và vận chuyển nghiêm ngặt,
đồng thời cần có kỹ thuật viên để tiến hành tiêm chủng (Sala và cs 2003).
Công nghệ sinh học phân tử thực vật cho phép chuyển nhiều gen quý vào genome
thực vật, tạo nên thế hệ thực vật có ưu thế mang các gen sản xuất nhiều sản phẩm có lợi.
Hệ thống Ti-plasmid của vi khuẩn A. tumefaciens được sử dụng rất hữu hiệu nhằm chuyển
gen ngoại lai có giá trị vào thực vật. Một khi gen ngoại lai nào đó được xâm nhập vào thực
vật, genome thực vật sẽ xem nó như một gen hoạt động của chúng, và gen này sản xuất sản
phẩm tương ứng mà nó chịu trách nhiệm (Lessard và cs 2002).
Mô hình sản xuất vaccine thực phẩm
Xuất phát từ cơ sở khoa học trên, ý định gắn một hay nhiều gen kháng nguyên của
vaccine động vật và người vào hệ thống Ti-plasmid và A. tumefaciens đã được thực hiện.
Sau khi chuyển gen, thực vật thế hệ mới đã tiếp nhận một nguồn gen vaccine từ vi sinh vật
hoặc nguồn sản xuất protein có hoạt tính sinh học nào đó. Khi được canh tác, cây mang
gen kháng nguyên đã tiến hành sản xuất sản phẩm và chứa trong các thành phần cơ thể
Tối ưu hóa mô hình
Kháng nguyên quan tâm
Gen cấu trúc (gen mã hóa)
Vector biểu hiện thực vật
Biến nạp gián tiếp qua Agro. tumefaciens
Tạo callus và chọn lọc
Tái sinh cây
Phân tích mức độ biểu hiện
Phân tích khả năng sinh miễn dịch
4
chúng. Nếu tách chiết và tinh sạch chúng sẽ thu được sản phẩm protein kháng nguyên. Nếu
sử dụng nguyên vẹn, động vật và người “ăn” loại thực vật này thì về nguyên tắc, sẽ tiếp
nhận được nguồn vaccine và do vậy có được khả năng miễn dịch.
Ưu thế của thực vật chuyển gen để sản xuất vaccine và các hợp chất có hoạt tính sinh
học cao là chúng dễ trồng, thời gian sinh trưởng ngắn, sản lượng cao, và do vậy cho chúng
ta thu được một lượng sản phẩm lớn (Sala và cs 2003). Nếu dùng chúng làm vaccine thì
phương thức đưa vaccine vào cơ thể lại đơn giản, động vật và người chỉ cần “ăn” nguồn
thực vật có vaccine là có thể có miễn dịch. Những kháng nguyên được sản xuất trong trong
thực vật không mang nguồn bệnh đến cho con người, những độc tố trong hệ thống vaccine
được giảm thiểu vì những tác nhân gây bệnh cho người và động vật không gây bệnh trên
thực vật (Walmsley và cs 2000).
Tuy nhiên, có một số vấn đề cần phải giải quyết khi phát triển vaccine thực phẩm.
Thứ nhất, chúng ta phải lựa chọn loại thực vật nào để dễ dàng thao tác đưa gen vaccine
vào, lại vừa ngon miệng để con người và động vật ăn chúng. Sự lựa chọn thực vật để sản
xuất và phát triển vaccine là rất quan trọng. Mặc dù những cây ngũ cốc có thể chứa protein
LTB (B subunit of E. coli heat-labile enterotoxin) trung hòa độc tố E. coli nhưng chúng sẽ
bị mất hoạt tính kháng nguyên khi nấu chín. Khoai tây chuyển gen đun sôi trong thời gian
ngắn (3 phút) mất đi 50% tác dụng của nó (Tacket và Mason 1999).
Thứ hai, chúng ta nên chọn loại kháng nguyên nào để ghép vào hệ gen thực vật, để
sau khi chuyển vào cơ thể, chúng không bị enzyme của hệ tiêu hóa phân hủy, đảm bảo còn
tồn tại để kích thích miễn dịch. Trở ngại chính của việc sử dụng vaccine thực phẩm là phải
tìm cách khắc phục sự phân giải của protein trong môi trường ruột. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, vaccine gây đáp ứng miễn dịch bằng đường miệng đòi hỏi một liều dùng phải cao
hơn vaccine tái tổ hợp do một phần kháng nguyên bị mất tác dụng trong môi trường acid
của dạ dày (Daniell và cs 2001b).
Thứ ba, nếu dùng thực vật chuyển gen để sản xuất kháng nguyên làm vaccine phân
tử thì phải chọn cây dễ trồng, năng suất cao, dễ dàng thu hoạch, chế biến và bảo quản. Một
trong những loài thực vật được chọn đầu tiên để chuyển gen vaccine là cây thuốc lá, vì loại
cây này dễ thao tác bằng kỹ thuật gen, dễ dàng nhân giống và dễ trồng. Năm 1992, Mason
và cs đã thực hiện chuyển gen kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B vào đối tượng
này (Mason và cs 1992). Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyển gen thành
công như chuyển gen kháng nguyên cholera kháng bệnh dịch tả (Daniell và cs 2001a), gen
kháng nguyên phòng bệnh than (Aziz và cs 2002), gen BfpA phòng bệnh đường ruột do
EPEC - Enteropathogeneic E. coli (Silva và cs 2002), gen kháng nguyên phòng bệnh uốn
ván (Tregoning và cs 2004)... Tuy nhiên, loại cây này không được người và động vật thích
ăn, vả lại chúng rất độc nên chúng chỉ được dùng vào mục đích nghiên cứu, hoặc sản xuất
chế phẩm sinh học bằng công nghệ gen.
Khoai tây và các loại cây ăn quả đang là mục tiêu được chọn để chuyển gen vaccine,
vì nó vừa là thức ăn của người và động vật, vừa có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất
cao nên giá thành rẻ và dễ sử dụng. Các công trình nghiên cứu chuyển gen vào khoai tây
đã cho kết quả khả quan như chuyển gen kháng nguyên bề mặt của virus viêm gan B
(Kong và cs 2001, Thanavala và cs 1995), gen LTB (Lauterslager và cs 2001), gen phòng
bệnh do Human papillomavirus-like (Warzecha và cs 2003), gen kháng nguyên bề mặt vỏ
HIV-1 gp 120 (Kim và cs 2004). Chuối cũng đã được Hassler và cs (1995) đưa vào thử
nghiệm. Chuối là cây được chú ý vì quả được trẻ em ưa thích, lại dễ trồng và thường mọc
tự nhiên ở các nước đang phát triển (Tripurani và cs 2003). Nếu chuyển gen vaccine phòng
bệnh nguy hiểm thì động vật hoang dã, gia súc nuôi và kể cả con người sẽ được miễn dịch
sau khi tiêu thụ loại chuối vaccine này.
5
Việc phát hiện ra vaccine thực phẩm đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con
đường tìm ra phương thức sản xuất vaccine rẻ tiền, điều này rất có ý nghĩa đối với các
nước đang phát triển (Tregoning và cs 2004). Người ta hy vọng rằng việc tạo ra vaccine
thực phẩm sẽ giúp các nước nghèo tự sản xuất được các loại vaccine này và sử dụng chúng
một cách thuận tiện bằng cách trồng các loại thực vật chuyển gen (Tripurani và cs 2003).
4. Tầm quan trọng của việc cải thiện mức độ biểu hiện gen
Kết quả nghiên cứu của một số tác giả cho thấy gen CTB vi khuẩn (Vibrio cholerae)
biểu hiện chỉ khoảng 0,3% lượng protein hòa tan tổng số (total soluble protein, TSP) ở
khoai tây (Arakawa và cs 1997); 0,095% ở thuốc lá (Wang và cs 2001); 0,02% và 0,04%
tương ứng trong lá và quả cà chua (Jani và cs 2002). LTB tự nhiên (có nguồn gốc từ E.
coli) biểu hiện trong thực vật rất thấp dưới 0,01% và rất hiếm khi đạt đến 0,4% protein
tổng số (Mason và cs 2002). Kháng nguyên bề mặt viêm gan B chỉ đạt 0,01% TSP trong
thực vật (Mason và cs 1992). Mức độ biểu hiện thấp như vậy của các kháng nguyên ngoại
lai trong thực vật đã hạn chế sự phát triển hiệu quả của các vaccine dựa trên cơ sở thực vật.
Vì thế, việc hướng tới các mức độ biểu hiện cao hơn của protein mong muốn đang được
nhiều phóng thí nghiệm quan tâm nghiên cứu.
Một trong những biện pháp tăng cường sự biểu hiện của gen là chúng ta phải biến
đổi gen, thiết kế lại cấu trúc gen và chuyển gen vào cơ quan thích hợp.
Gen có thể được biến đổi để có được điểm gắn ribosome cần thiết trên phân tử
mRNA nhằm giúp nó có hoạt động biểu hiện cao hơn. Ở vi khuẩn, đoạn gắn ribosome
(chuỗi Shine-Dalgarno, SD) được mô tả rất rõ, nhưng ở thực vật thì khác nhau và không
thống nhất. Từ 75 đoạn DNA nhân của thực vật bậc cao được công bố, Joshi (1987) tìm
thấy đoạn bảo thủ của codon khởi đầu ATG là TAAACAATGGCT. Nucleotide thứ 3 (A)
trước ATG có vai trò quan trọng nhất để gen biểu hiện mạnh sản phẩm protein (Kozak
1989). Hiệu suất dịch mã được tăng cường khi ghép thêm một đoạn dẫn đầu (leader
sequence) không dịch mã của virus vào giữa promoter với đoạn mã hóa của gen (Gallie và
cs 1987).
Những đoạn intron được kết hợp với gen chuyển vào trong thực vật đã làm tăng mức
độ biểu hiện của gen, mặc dù cơ chế của hiện tượng này cũng chưa được làm sáng tỏ
(Lessard và 2002). Tanaka và cs (1990), thông báo mức độ biểu hiện cao hơn 90 lần của
gen gus trong cây lúa chuyển gen khi gắn thêm vào gen gus đoạn intron của gen catalase
tách chiết từ cây đậu trắng. Sự gia tăng biểu hiện gắn liền với gia tăng mật độ mRNA. Hiện
tượng gia tăng này không xảy ra trong cây thuốc lá chuyển gen. Maas và cs (1991) nghiên
cứu tác động của exon 1 và intron 1 của gen Shrunken-1 ở cây ngô lên biểu hiện tạm thời
của gen CAT (chloramphenicol acetyltransferase) trong mô ngô và lúa chuyển gen. Kết
quả cho thấy đoạn exon làm tăng mức độ biểu hiện 10 lần, đoạn intron làm tăng 100 lần,
còn khi tổ hợp cả hai đoạn exon và intron thì hiệu quả gia tăng 1.000 lần khi ghép chúng
vào giữa promoter 35S với gen CAT. Những intron có tác động không giống nhau khi
chuyển vào cây một lá mầm và hai lá mầm, chứng tỏ rằng những cách thức thích hợp cho
sự ghép nối giữa 2 loài khác nhau là rất khác nhau (Lessard và cs 2002).
Trình tự dẫn đầu 5’ không dịch mã (5’ untranslation leader sequence, 5’ UTLs) trên
mRNA của virus, chẳng hạn như đoạn omega (Ω) của virus khảm thuốc lá, đã được sử
dụng để làm tăng mức độ biểu hiện gen trong tế bào cây thuốc lá. 5’ UTLs được phân lập
từ genome của cây hai lá mầm sẽ tăng mức độ biểu hiện của gen khi được chuyển vào cây
hai lá mầm và 5’ULTs từ cây một lá mầm cũng tăng biểu hiện khi nó được chuyển vào cây
một lá mầm (Lessard và cs 2002).
6
Perlak và cs (1990, 1991) khi nghiên cứu biểu hiện của 2 gen Bt là gen CryIA(b) và
CryIA(c) trên cây thuốc lá và cà chua (Lycopersicon esculentum) chuyển gen nhận thấy
chúng có mức độ biểu hiện rất yếu. Có 3 vấn đề chính liên quan đó là mã bộ ba không
thích hợp cho thực vật, chuỗi tín hiệu polyadenyl hóa không đúng chỗ và mRNA không
bền vững. Cả ba vấn đề đều là hậu quả của một nguyên nhân: tỷ lệ AT cao. Mã giàu AT
thường có ở những gen độc tố, nhưng rất hiếm ở thực vật (ví dụ, TTA là mã của leucine).
Vì thế, khi dịch mã một gen lạ giàu TTA ở thực vật thường có hiện tượng ngừng trong bộ
máy ribosome làm cho quá trình sinh tổng hợp protein bị kết thúc sớm. Hiện tượng này xảy
ra với gen Bt vì trong đó có nhiều chuỗi ATTTA dạng tín hiệu polyadenyl hóa (Dean và cs
1986). Ngoài ra, chuỗi ATTTA có tính chất làm giảm độ bền vững của mRNA. Takagi-
Ohme và cs (1993) cho biết trình tự giàu AU chắc chắn gây ra sự phân hủy nhanh mRNA
trong thuốc lá. Nghiên cứu của DeRocher và cs (1998) đã chứng minh sự suy giảm nhanh
mRNA mã hóa protein kháng côn trùng phân lập từ vi khuẩn chuyển vào thực vật là do gen
chuyển vào giàu AU (Kang và cs 2003a).
Promoter thường có cấu trúc khá đồng nhất cho phép nhận được mức độ biểu hiện
gen khác nhau thông qua hoán vị và tổ hợp lại các vùng của một promoter. Điều này thể
hiện rất rõ ở promoter CaMV 35S (cauliflower mosaic virus 35S). Phần lớn nghiên cứu sử
dụng promoter cơ bản từ virus như CaMV 35S đã tăng mức độ phiên mã cao nhất trong mô
thực vật. Trong một số trường hợp, promoter có thể xóa bỏ hiệu ứng im lặng của gen do
hiện tượng đồng ngăn chặn. Hoạt lực của promoter có thể được tăng cường khi bố trí hai
hoặc nhiều promoter nối tiếp nhau (Lessard và cs 2002).
Mỗi loại protein thực vật thường có vị trí hoạt động riêng, rất đặc trưng trong tế bào,
phần lớn là trong tế bào chất. Các loại protein thường được sinh tổng hợp bởi ribosome tự
do trong tế bào chất và có tín hiệu đặc biệt để giữ chúng ở đó. Nhiều loại protein được tổng
hợp trong tế bào chất nhưng được chuyển vào lục lạp, ty thể hoặc nhân. Như vậy, phải có
tín hiệu đặc biệt cho sự định hướng đó. Ngoài ra, sự định hướng cũng có trong cơ quan tử,
ví dụ như trong các thể hạt của lục lạp cũng đòi hỏi phải có đoạn tín hiệu. Tín hiệu hướng
về lục lạp và ty thể thường nằm ở đầu amine (N) của chuỗi protein và mất đi khi protein
thâm nhập vào trong cơ quan tử. Trình tự SEKDEL thường nằm đầu C (carboxyl) của
protein trên mạng lưới nội sinh chất. Protein SEKDEL thực hiện các chức năng cần thiết
liên quan đến sự lắp ráp và cuộn xoắn protein trong mạng lưới nội sinh chất, giúp tích lũy
và ổn định protein (Lessard và cs 2002).
Sự