Vai trò của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống con người thời hiện đại

TÓM TẮT Trải qua trên 2.500 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã có những đóng góp rất lớn cho văn hóa nhân loại. Triết học xã hội Phật giáo thấm đượm tính nhân bản, nhằm đưa con người trở về với cuộc sống tự chủ của chính mình, giải phóng con người ra khỏi sự điều khiển của tư tưởng thần quyền siêu hình, đề cao vấn đề đạo đức trên nền tảng trí tuệ. Con đường giải thoát của Phật giáo là sự tu luyện toàn diện từ đời sống đạo đức theo giới luật và phát huy năng lực của thế giới nội tâm. Con người phải thực hiện bằng cuộc đời nhân đức của chính mình chứ không phải là nhờ sự ban ơn của đấng thần linh, đấng tối cao nào.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống con người thời hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 3(28) - Thaùng 5/2015 108 VAI TRÒ CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI THỜI HIỆN ĐẠI ĐẶNG THỊ ĐÔNG(*) TÓM TẮT Trải qua trên 2.500 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã có những đóng góp rất lớn cho văn hóa nhân loại. Triết học xã hội Phật giáo thấm đượm tính nhân bản, nhằm đưa con người trở về với cuộc sống tự chủ của chính mình, giải phóng con người ra khỏi sự điều khiển của tư tưởng thần quyền siêu hình, đề cao vấn đề đạo đức trên nền tảng trí tuệ. Con đường giải thoát của Phật giáo là sự tu luyện toàn diện từ đời sống đạo đức theo giới luật và phát huy năng lực của thế giới nội tâm. Con người phải thực hiện bằng cuộc đời nhân đức của chính mình chứ không phải là nhờ sự ban ơn của đấng thần linh, đấng tối cao nào. Từ khóa: tính nhân bản, tư duy hướng nội, giải phóng con người ra khỏi thần linh, bình đẳng, đạo đức, trí tuệ, thiện pháp, ba nghiệp (thân, miệng, ý) thanh tịnh ABSTRACT Over 2,500 years of extistence and development, Buddhism has made great contribution to global cultures. Imbued with the spirit of humanity, the philosophy of Buddhism brings human beings from the thought of metaphysical theocracy back to the life of self control, upholds the human morality and values of knowledge. The path of Buddhist enlightenment is a perfect cultivation from ethic life on precepts and promote inner-feeling world. People are to do with their own kindness activities, not to base on the blessings from the dieties. Keywords: humanity, internal thoughts, libebrating people from the deities, equality, ethics, intelligence, good dharma, incarnation, three tranquil karmas (body, mouth, thought) 1. ĐẶT VẤN ĐỀ(*) Trải qua trên 2.500 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo đã có những đóng góp rất lớn cho văn hóa nhân loại. Triết học xã hội Phật giáo thấm đượm tính nhân bản, nhằm đưa con người trở về với cuộc sống tự chủ của chính mình, giải phóng con người ra khỏi sự điều khiển của tư tưởng thần quyền siêu hình, đề cao vấn đề đạo đức trên nền tảng trí tuệ. Con đường giải thoát của Phật giáo là sự tu luyện toàn diện từ đời sống đạo đức theo giới luật và phát huy năng lực (*)ThS, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM của thế giới nội tâm. Con người phải thực hiện bằng cuộc đời nhân đức của chính mình chứ không phải là nhờ sự ban ơn của đấng thần linh, đấng tối cao nào. Kinh, Luật, Luận đã ghi lại những những lời dạy của Đức Phật được xem là rất thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày, và nếu đối chiếu với con người thời hiện đại thì những triết lý đạo Phật vẫn không lạc hậu. Giáo dục là môt loại hình sản xuất đặc biệt trong các loại hình sản xuất xã hội, sản phẩm con người luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Triết học chính trị xã hội Phật giáo không chỉ hướng đến xây dựng 109 một hình thái xã hội nhân bản tiến bộ mà nhất là quan tâm đến sự chấm dứt luôn hồi sanh tử, giải thoát đau khổ. Đó là cảnh giới siêu việt của những bậc đã thực hành chứng ngộ mà Đức Phật tại thế chỉ nhận mình là người chỉ đường, đi hay không là việc của mỗi cá nhân. 2. VAI TRÒ CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI THỜI HIỆN ĐẠI 2.1. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và thời đại của Ngài Thời kỳ văn minh sông Hằng nổi tiếng với công cụ bằng đồng và đô thị xuất hiện sớm trong giai đoạn đầu của xã hội chiếm hữu nô lệ đã khiến nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp manh nha ở Ấn Độ thời cổ đại. Hệ thống giáo lý của Veda xuất hiện vào giai đoạn khoảng 2000 năm tr.CN đến TK VIII tr.CN gần như bị sụp đổ trước các quan điểm nhân bản của Phật giáo. Veda phản ánh ước vọng cuộc sống con người và thiên nhiên yên ổn nhưng lại chứa đựng tín ngưỡng ma thuật, đa thần giáo. Trong khi Phật giáo nêu cao triết thuyết khổ, vô thường, vô ngã, duyên sanh, tinh thần từ bi, hỷ xả, bình đẳng, giải thoát, niết bàn,v.v... làm cho nhân loại phải nhìn lại lối tư duy cũ-lối tư duy hướng ngoại, tìm cầu hạnh phúc bên ngoài bản thân. Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thân từ dòng họ Thích Ca ở nước Ca Tỳ La Vệ, phía Bắc Trung Ấn là người sáng lập ra đạo Phật. Vua cha là Tịnh Phạn, mẫu hậu là Ma-da. Phật Thích Ca hạ sanh vào ngày mồng 8 tháng 4 năm 624 trước Tây lịch khi Ma-da đã 45 tuổi. Đây là những cứ liệu về lịch sử Đức Phật rõ ràng và đã được các nhà khoa học xác chứng. Đức Phật ra đời trong hoàn cảnh xã hội Ấn Độ cổ đại vô cùng rối ren, chế độ phân biệt giai cấp rất gay gắt, tư tưởng thần quyền thống lãnh tất cả đời sống của con người. Tôn giáo thời bấy giờ có đến cả trăm thứ đạo nhưng đều không giải quyết được các vấn đề con người vướng mắc. Tư tưởng: “không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn”, tư tưởng về bình đẳng, giải thoát, tư tưởng từ bi hỷ xả,... đã làm một cuộc cách mạng lớn lao trong nhận thức của xã hội cổ Ấn Độ thời bấy giờ. Phật còn cho nữ giới xuất gia và xác chứng sự chứng đắc của nữ giới như nam giới đã xóa đi quan niệm trọng nam khinh nữ mà cho đến tận những thế kỷ sau này khi con người trải qua nhiều hình thái xã hội cũng đã ủng hộ. Đức Phật đã tìm ra con đường giải thoát khổ đau, đem lại nhiều lợi ích thiết thực, những tiến bộ tích cực cho nhân loại mà ngày nay tính đúng đắn của những lời dạy vẫn luôn là phù hợp với con người mọi thời đại. 2.2. Nhân sinh quan trong triết học chính trị xã hội Phật giáo 2.2.1. Vấn đề con người Phật giáo quan niệm cõi Ta-bà mà con người đang sống đây gồm có sáu cõi (cao nhất là trời, đến người, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục). Đây là vòng sanh tử luân hồi lên xuống tùy theo nhân quả con người tạo nghiệp với thân khẩu ý mà chiêu cảm những cảnh giới tương ứng với tâm thức của mỗi loài. Và con người cũng chỉ là một loại chúng sanh trong vô số những loại chúng sanh trong các kiếp luân hồi. Theo đạo Phật, nguồn gốc khổ đau của con người là do vô minh, xuất phát từ sự hiểu biết không chân chính do tự mình tạo ra, không phải từ một đấng siêu nhân, quyền năng nào. Phật giáo lấy con người làm trung tâm của giáo dục.Bản chất của giáo dục Phật giáo là biện pháp nhằm đưa lại cho con 110 người niềm tin, trí tuệ để nhận chân chính mình, hạn chế cái nhân bất thiện, giữ gìn và phát triển nhân thiện vốn có tự nơi con người trong đời sống hiện tại để có quả tốt ở tương lai. Muốn đi đến đích cuốc cùng của sự giác ngộ, an vui thì yếu tố chánh kiến và tinh thần thong dong, tự tại, tinh tấn, sáng suốt, không vướng mắc, hành trì nghiêm mật, thanh tịnh thân khẩu ý theo thiện pháp không thể thiếu đối với người tu Phật và nếu người thế gian thực hành được chút ít phần trong những nhận thức đó cũng sẽ mang lại nhiều lợi lạc cho xã hội trên tất cả mọi phương diện. Ý nghĩa của từ tu tập trong Phật pháp là sửa đổi những hành vi sai trái của con người thành hành vi đúng đắn, là thay đổi sự nhận thức sai lầm thành nhận thức đúng, chặt đứt tất cả những khổ đau phiền não. Chỉ khi nào chứng đắc vô vi tịch diệt, gạt sạch phiền não con người ấy mới có thể chuyển Phàm thành thánh và đạt được chân lý tối cao, không còn những nhận thức sai lầm như phàm phu. Pháp môn tuy nhiều nhưng không ngoài mục đích là đưa con người trở về quán chiếu nội tâm, thăng tiến tâm linh, xả bỏ và nhận ra được sự sanh diệt của các pháp hữu vi để đạt được chân đế. Triết học chính trị xã hội Phật giáo chủ trương tự do tuyệt đối của con người chỉ có được trong tâm thức khi được giải thoát. Vì vậy, con người cần phải nhìn vào nội tâm của chính mình. Triết Phật là lấy đối tượng con người và xã hội làm trung tâm cho sự nghiên cứu nhằm giúp con người thoát khỏi các vướng mắc, tham lam, hận thù; tích cực chuyển hóa thân, miệng, ý hướng thiện, giải quyết vấn đề khổ đau, phát triển tiềm năng tâm linh hướng đến giải thoát sanh tử. 2.2.2. Vấn đề xã hội Phật giáo giải quyết những vấn đề xã hội dựa trên sự bình đẳng, dân chủ, không bàn luận chính trị, là tôn giáo khoan dung, ủng hộ các vấn đề phúc lợi xã hội, tích cực nhập thế, giải quyết các vấn đề thực tiễn nhằm cải thiện đời sống nhân sinh ngày một tốt đẹp hơn. Triết học chính trị xã hội Phật giáo chú trọng đến tính duyên khởi. Phật giáo quan niệm vạn vật trong vũ trụ đều có tứ tướng sinh, trụ, dị, diệt; con người thì sống trong vòng sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả vạn vật đều hàm chứa những vận động, biến hóa, phát triển, gần như tư duy biện chứng; tin tưởng vào vấn đề nhân quả; giải thích mối quan hệ thể xác và tinh thần tại sao lại có các sự sai khác, lúc thuận, lúc nghịch; đồng thời nêu cao tinh thần Trung đạo, không rơi vào hai trạng thái cực đoan khổ hạnh hay ép xác. Bên cạnh đó, Phật giáo cũng rất quan tâm tới vấn đề bình đẳng giữa người với người; bình đẳng về khả năng giác ngộ giữa Đức Phật và chúng sinh; bình đẳng giữa chúng sinh với các loài vô tình như đất, đá, nước, đồ vật,... Tinh thần từ bi hỷ xả, ban vui cứu khổ luôn được đề cao nhưng nó không hoàn toàn giống với nhân ái, bác ái, không hạn chế bởi đẳng cấp như người thế gian vẫn quan niệm. Đích đến cuối cùng của triết Phật là giải thoát ra khỏi nỗi khổ niềm đau và sự trói buộc của lưu chuyển sinh tử. Nếu bất kỳ ai cũng thực hành không sát sanh, không giết người, không đánh nhau; không trộm cắp; chung thủy một vợ một chồng; không nói dối; không uống rượu say; không dùng các chất gây nghiện và tiến lên làm các thiện pháp khác nữa thì đều đem lại hạnh phúc, đạo đức, trí tuệ cho bản thân mình và xã hội. Triết học chính trị xã hội Phật giáo chủ 111 trương những mục tiêu chính như: trình bày phương pháp và đường lối giải thoát, quan tâm đến sự hoàn thiện nhân cách đạo đức con người và chú trọng dung hòa bổn phận, trách nhiệm đạo đức giữa các quan hệ: vợ - chồng, cha mẹ - con cái, thầy giáo- học trò, chủ-tớ, tình bạn, tín đồ - Tăng sĩ, v.v Đó là một trong những đóng góp tích cực của Phật giáo cho xã hội để có một cuộc sống hiện tại an vui cho mình và mọi người xung quanh. Được như vậy thì cõi Tây phương cực lạc của cõi Phật A Di Đà cũng chính là đang hiện tiền trước mắt, pháp thân Phật thường còn khi tánh giác của mỗi cá nhân được phát huy trong chánh niệm. 2.2.3. Vấn đề đạo đức Đạo đức Phật giáo được khẳng định như là nền tảng của thiền định và trí tuệ, đưa con người đến cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời dựa trên bình đẳng, dân chủ và nhân quyền được nhìn từ nội tại của mỗi cá nhân. Phật giáo quan tâm nhiều đến các vấn đề đaọ đức của con người thông qua các hành vi thân khẩu ý. Mặc dù có tham gia trong các chương trình của phúc lợi xã hội như bố thí, xây dựng cầu đường, trồng rừng, chăm người già, chăm người đau bệnh, trường học, các cơ sở y tế...nhưng Phật giáo không đặt nặng các vấn đề phương tiện gieo duyên mà cao hơn nữa Đức Phật chỉ dạy phương pháp và cách chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý theo thiện pháp giúp mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình. Sống đạo đức, có giới hạnh để mang lại lợi ích cho tự thân và xã hội trong hiện tại và cả tương lai luôn là nếp sống của những người con Phật. Phật dạy về giới luật không những để tiến bước trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự, an vui, hòa bình cho gia đình, xã hội. Giới chính là hàng rào ngăn cấm những việc xấu của thân, khẩu, ý. Phật giáo chủ trương “đến, nghe, hiểu rồi mới tin”, không ép ai phải tin rồi mới hiểu, niềm tin đó là tin vào Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng tu tập chơn chánh). Đó là niềm tin sáng suốt dựa trên sự thực nghiệm tâm linh tự lợi, lợi tha dựa vào những phương pháp Phật chỉ dạy như giáo lý Tứ diệu đến, Thập nhị dân duyên, Giới-định-tuệ,... bởi mục đích rốt ráo và cao nhất của Phật giáo đó là giải thoát con người ra khỏi những tham lam, hận thù, ngu si, chấp dính và đau khổ. 3. KẾT LUẬN Triết học được bắt nguồn từ Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ và Trung Quốc. Triết học của Phật giáo có cách tiếp cận không hoàn toàn giống với phương Tây mà kế thừa tư duy triết học từ Ấn Độ cổ, đại diện cho triết học phương Đông với mục đích giải thoát khổ đau bằng phương pháp nội quán, trở vào bên trong. Thực sự, trong suốt cuộc đời chứng ngộ và hoằng pháp, Đức Phật không hề chủ trương làm chính trị nhưng những lời dạy của Ngài mang nhiều thông điệp liên quan đến những vấn đề mà chính trị xã hội đề cập và giải quyết được nhiều những vướng mắc, mâu thuẫn cho con người, con người hiện đại thời nay cũng rất khó mà từ chối được ảnh hưởng tích cực của Phật giáo trong khi cuộc sống vật chất và hưởng thụ dù nhiều nhưng không làm cho người ta hết khổ. Tư tưởng của Phật giáo khẳng định chỉ cần phá bỏ ý nghĩ chấp ngã, chấp pháp thì cuộc sống con người sẽ an lạc và hạnh phúc. Lời dạy cuối cùng của Đức Phật là: “hãy tự mình thắp đuốc lên, hãy tự mình nương tựa nơi mình, nương tựa chính pháp, đừng nương tựa vào một nơi nào khác”. 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Doãn Chính (2002), Lịch sử triết học Ấn Độ - Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Kimura Taiken (1969), Đại thừa Phật giáo tư tưởng Luận, H.T.Thích Quảng Độ (dịch Việt), Tu thư Đại học Vạn Hạnh. 3. Nguyễn Thiên Thuận (2007), Nhân cách Văn hoá của Đức Phật, Nxb Văn hoá Sài Gòn. 4. Nhiều tác giả (1995), Đạo đức học Phật giáo, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. 5. Thích Tâm Thiện (2000), Vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 6. Thích Thiện Siêu (2000), Vô ngã là Niết bàn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 7. Thích Nhất Hạnh (2005), Đường xưa mây trắng, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. * Ngày nhận bài: 03/02/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.