Tóm t t: Quán ngữ tình thái là lớp từ công cụ vốn
không xa lạ nhưng là lớp từ gây không ít khó khăn,
lúng túng cho những người làm công tác giảng dạy
tiếng Việt trong nhà trường nói chung và cho người dạy
tiếng Việt như một ngoại ngữ nói riêng bởi tính đa dạng
và đa chức năng của nó. Bài viết này đặt vấn đề phân
biệt các quán ngữ tình thái với các tổ hợp từ tự do có
cùng hình thức và vị trí xuất hiện trong câu. Áp dụng
các thủ pháp phân tích ngôn ngữ, cải biến có thay đổi
nghĩa và cải biến không thay đổi nghĩa, chúng tôi cố
gắng tìm ra những dấu hiệu hình thức phân biệt quán
ngữ tình thái với những tổ hợp tự do có cùng hình thức
và vị trí xuất hiện trong câu. Hy vọng kết quả nghiên
cứu của bài viết là nguồn tham khảo hữu ích cho
những ai quan tâm đến việc dạy và học tiếng Việt.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 272 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề biểu hiện tình thái trong tiếng Việt với việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
422
VẤN ĐỀ BIỂU HIỆN TÌNH THÁI TRONG TIẾNG VIỆT
VỚI VIỆC DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Đoàn Th Thu Hà
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t
t: Quán ngữ tình thái là lớp từ công cụ vốn
không xa lạ nhưng là lớp từ gây không ít khó khăn,
lúng túng cho những người làm công tác giảng dạy
tiếng Việt trong nhà trường nói chung và cho người dạy
tiếng Việt như một ngoại ngữ nói riêng bởi tính đa dạng
và đa chức năng của nó. Bài viết này đặt vấn đề phân
biệt các quán ngữ tình thái với các tổ hợp từ tự do có
cùng hình thức và vị trí xuất hiện trong câu. Áp dụng
các thủ pháp phân tích ngôn ngữ, cải biến có thay đổi
nghĩa và cải biến không thay đổi nghĩa, chúng tôi cố
gắng tìm ra những dấu hiệu hình thức phân biệt quán
ngữ tình thái với những tổ hợp tự do có cùng hình thức
và vị trí xuất hiện trong câu. Hy vọng kết quả nghiên
cứu của bài viết là nguồn tham khảo hữu ích cho
những ai quan tâm đến việc dạy và học tiếng Việt.
Abstract: Vietnamese modal habitual collocations
are familiar functional group of words and frequently
used in daily language. Teaching these phrases to both
native speakers and foreigners is a challenging task
due to the complex features in their meaning and use.
This paper attemps to distinguish some modal habitual
collocations from propositional parts of sentences
where form and position are identical. Applying analytic
procedure, meaning-preserving transformation and
meaning-changing transformation we try to figure out
some formal linguistic signs to distinguish modal
habitual collocations from phrases where form and
position are identical. These findings can serve as a
reference to individuals who are teaching and learning
Vietnamese.
1. Dạy tiếng Việt như một ngọai ngữ đến trình
độ cao tất yếu phải dạy phương thức biểu hiện tình
thái (TT). Nếu không, người học sẽ không thể
hiểu được đầy đủ ý nghĩa của một phát ngôn, nhất
là trong khẩu ngữ.
Trong tiếng Việt, các yếu tố ngôn ngữ dùng để
diễn đạt các nội dung TT là rất đa dạng. Chúng có
cương vị ngôn ngữ học rất khác nhau, đảm đương
những chức năng ngữ pháp khác nhau và được đặt
ở những vị trí khác nhau trong câu1. Trong đó,
thường dùng hơn cả là các tiểu từ TT (còn gọi là
trợ từ TT) như: à, ư, nhỉ, nhé... hoặc các cụm từ cố
định biểu thị ý nghĩa TT được gọi là quán ngữ tình
thái (QNTT) như: biết đâu..., ... không biết chừng,
kể ra..., có khi..., chả trách..., ai bảo..., gì thì gì...,
đằng thẳng ra thì...
Về tiểu từ TT đã có nhiều nhà ngôn ngữ học,
quan tâm và nghiên cứu khá tỷ mỷ. Nhiều sách
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài cũng đã đưa
vào nội dung giảng dạy2. Còn về QNTT thì chưa
thấy mấy người người đề cập đến, nhất là những
trường hợp QNTT có hình thức cấu tạo và vị trí
xuất hiện giống hệt một cụm từ thuộc thành phần
ngôn liệu của câu.
Ở đây, chúng tôi xin trình bày một số suy nghĩ
bước đầu về vấn đề này. Khảo sát ý nghĩa và cách
dùng QNTT là một đề tài lớn, đòi hỏi nghiên cứu
công phu và dài hơi. Trước mắt, chúng tôi chỉ
muốn thông qua một vài ví dụ đơn giản để gợi mở
vấn đề và trong chừng mực nào đó để những
1
Xem Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp chức năng,
Quyển 1, Nxb Khoa học Xã hội, 1991; Nguyễn Văn Hiệp,
Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục, 2008.
2
Trần Thị Chung Toàn, Tiếng Việt cơ sở cho người Nhật,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000; Trần Văn Tiếng,
Jeon Hyae Kyeong, Tiếng Việt hội thoại (II) Sách học
tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học Ngoại
ngữ & Tin học Tp.Hồ Chí Minh, Trường Đại học Ngoại
ngữ Seoul Hàn Quốc, 2004; Mai Ngọc Chừ (Chủ biên),
Quê Việt, Sách daỵ tiếng Việt, Trình độ A, Quyển 2, Nxb
Thế Giới, 2007; Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Giáo trình
tiếng Việt cho người nước ngoài, Quyển 1, Quyển 4, Nxb
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2008; Nguyễn Minh
Thuyết (Chủ biên), Tiếng Việt vui, Quyển 4 (Sách thử
nghiệm), Nxb Thế giới, 2009; Đoàn Thiện Thuật (Chủ
biên), Thực hành tiếng Việt, Sách dùng cho người nước
ngoài, Trình độ B, Nxb Thế giới (Tái bản lần thứ 7), 2013.
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
423
người giảng dạy cùng chúng tôi phân định đâu là
QNTT, đâu không phải là QNTT, chẳng hạn trong
những trường hợp sau:
1a) - Tôi nghe nói cậu Nam lớp mình bị ngã xe
máy gãy chân phải vào viện bó bột.
- Ai bảo nó phóng nhanh vượt ẩu. Cho đáng
đời! (Ngữ liệu trực tiếp)
1b) - Chị vào đi. Ai bảo chị em ở đây mà chị
biết để đến tìm em?
- Ừ thì chị hỏi mẹ em. (Ngữ liệu trực tiếp)
2a) - Ông cụ yếu lắm rồi. Bác sĩ bảo có khi ông
đi trong đêm nay mất. (Ngữ liệu trực tiếp)
2b) - Từ ngày ông cụ ốm. Gia đình tôi phải
thay phiên nhau vào trông cụ. Có khi thì nhà tôi
vào, có khi thì tôi, có khi con gái tôi. (Ngữ liệu
trực tiếp)
Các QNTT dạng này thì rất nhiều. Do khuôn
khổ bài viết có hạn, trong bài này chúng tôi chỉ xét
đến mấy QNTT sau: Kể ra..., ... biết đấy, Chả
trách..., Ai bảo... Áp dụng các thủ pháp chêm xen,
thay thế, chúng tôi cũng cố gắng tìm ra những dấu
hiệu hình thức phân biệt chúng với các tổ hợp từ
tự do có cùng hình thức và vị trí xuất hiện trong
câu.
2. Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu Việt
ngữ, QN là kiểu đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi
quan tâm trước hết là của các nhà từ vựng học.
Cho đến nay, tuy chưa đạt được một sự nhất trí
hoàn toàn về phạm vi các yếu tố ngôn ngữ được
gọi là QN nhưng về cơ bản, các nhà từ vựng học
đồng tình với nhau ở một số đặc điểm sau của
QN:
- Về mặt hình thức: QN là sự kết hợp của ít
nhất là hai tiếng với nhau; được dùng lặp đi lặp lại
như những đơn vị có sẵn; mang tính ổn định hoặc
tương đối ổn định.
- Về mặt nghĩa: QN có cả nghĩa đen (có thể suy
ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành) hoặc nghĩa
bóng.
- Về mặt chức năng: QN có chức năng đưa đẩy,
rào đón, nhấn mạnh, liên kết hoặc biểu thị các ý
nghĩa TT. Ngoài ra, QN cũng có thể có chức năng
định danh (chỉ ra một số hành vi, phẩm chất, tính
chất, trạng thái). Mỗi phong cách có những QN
riêng. [Xem Nguyễn Văn Tu 1968; Nguyễn Thiện
Giáp 1975, 1985, 1996; Đỗ Hữu Châu 1981,
1986].
Trong địa hạt ngữ pháp, khái niệm này hầu như
không xuất hiện một cách trực tiếp nhưng những
tổ hợp cụ thể thuộc trạm trù QN thì đây đó có
được nhắc đến với những tên gọi khác nhau như:
trạng tự chỉ sự hoài nghi3, trạng tự chỉ ý kiến4,
phụ chú ngữ5, phụ ngữ câu chỉ ý kiến6..) tùy quan
điểm và định hướng nghiên cứu của mỗi tác giả.
3. Trong vòng khoảng hơn chục năm trở lại
đây, khi mà ngữ pháp chức năng và ngữ dụng học
được giới thiệu một cách chính thức và rộng rãi ở
Việt Nam, nhiều hiện tượng, nhiều vấn đề của
ngôn ngữ học đã được nhìn nhận, đánh giá lại một
cách đầy đủ và thỏa đáng hơn trong đó có vấn đề
TT. Khả năng biểu thị ý nghĩa TT của các kiểu
đơn vị ngôn ngữ mà truyền thống vẫn quen gọi là
QN đã bắt đầu thu hút được các nhà Việt ngữ học
quan tâm nghiên cứu. Theo đó, khái niệm QNTT
bắt đầu được nhiều người biết đến. Trong bài viết
này, QNTT được hiểu là những tổ hợp từ, những
lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay khuôn
cấu trúc ổn định hoặc tương đối ổn định được
người nói dùng như một công cụ có công năng
của những tác tử TT tác động vào dung mệnh đề
(P- Proposition) theo một kiểu nào đó. Vai trò chủ
yếu của chúng là tham gia vào TT (Modus) của
câu, hành chức như một loại phương tiện bổ trợ,
3
Trần Trọng Kim - Phạm Duy Khiêm (1940), Việt Nam
văn phạm, Lê Thăng xuất bản, Imprimerie du Nord, N
133 Rue de Coton, tr.126-128.
4
Nguyễn Quang Oánh - Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim (1942),
Việt Nam văn phạm giáo khoa thư, Lê Thăng xuất bản,
Imprimerie du Nord, N 133-135 Rue de Coton, tr.112.
5
Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng
Việt, Tập 2, Nxb KHXH, tr. 225.
6
Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb ĐH và
THCN, tr.194.
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
424
tác động vào nội dung mệnh đề, vào ý nghĩa của
chỉnh thể câu, đưa vào câu những kiểu TT đánh
giá, biểu cảm khác nhau của người nói đối với nội
dung sự tình được thể hiện bằng mệnh đề P, với
người nghe trong sự tác động liên chủ thể giữa
những người tham gia giao tiếp cũng như với các
nhân tố khác của ngữ cảnh.
4. Có thể nói, QNTT tiếng Việt là kiểu đơn vị
ngôn ngữ rất phong phú, đa dạng về
hình thức cấu tạo nội tại. Chúng có thể là: tổ
hợp từ có hình thức một câu (Chị tính P, bác biết
đấy P,...), kết cấu danh ngữ (mỗi tội P, cái trò P,
thói đời P,...), động ngữ (được cái là P, đã đành P,
mới hay P,...), tính ngữ (đúng hơn là P, may thay
P, ác một nỗi P,...), hoặc giới ngữ (Theo... thì P,
như trên đã nói thì P,...). Trong câu cũng không
có vị trí cố định dành cho QNTT. Nghĩa là QNTT
có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau: đầu câu
(ai bảo P, cái trò P, thói đời P, mới biết P,...);
giữa câu, liền sau chủ ngữ (chỉ được cái P, chỉ
mỗi tội P, chẳng qua P,...) hoặc cuối câu (P cũng
nên, P thì phải, P không biết chừng,...) tuy rằng vị
trí đầu câu chiếm ưu thế hơn cả.
Nghĩa của các QNTT là loại nghĩa nằm ở tầng
sâu, không hoàn toàn đồng nhất với nghĩa bề mặt -
loại nghĩa có được bằng phép cộng nghĩa các
thành tố cấu thành tổ hợp. Ngay cả đối với trường
hợp các QNTT mà nghĩa của chúng thoạt nhìn
tưởng như vẫn còn nguyên nghĩa tự thân vốn có
nhưng kỳ thật ở đây đã có một sự chuyển biến sâu
xa về mặt nghĩa. Nói rõ hơn, ở đây chúng đã tham
gia vào một cơ tầng ngữ nghĩa khác (không phải
là nghĩa mệnh đề) và được dùng để làm nổi bật
một giá trị TT nào đó của câu.
5. Với những đặc điểm về cấu tạo nội tại cũng
như khả năng phân bố vị trí trong câu như vậy, có
một câu hỏi không thể không đặt ra: làm thế nào
để phân biệt những QNTT có hình thức cũng như
vị trí xuất hiện giống hệt một thành phần ngôn liệu
của câu như các ví dụ (1a), (1b), (2a), (2b). Đây là
những trường hợp gây không ít khó khăn, lúng
túng cho cả người dạy lẫn người học tiếng Việt
như một ngoại ngoại ngữ. Trong mục này, chúng
tôi tiến hành phân tích ý nghĩa và cách dùng của
bốn QNTT ai bảo, biết ngay mà, có khi và chả
trách đồng thời vận dụng các thủ pháp chêm xen,
thay thế nhằm tìm ra các dấu hiệu hình thức phân
biệt chúng với các thành phần ngôn liệu của câu
có cùng hình thức và cùng vị trí xuất hiện.
5.1. Kể ra P
Xét các câu sau:
(3) Thấm thoắt từng ấy năm rồi không một lá
thư, kể ra mình cũng tệ thật. (KN. 140)
(4) Nó lại nhìn mẹ. Lại đôi môi khô nứt và
nhệch nhạc. Lại đôi mắt long sòng sọc. Nó nghĩ
"Kể ra đôi mắt mẹ cũng đẹp, nhưng hình như
nhắm lại thì đẹp hơn". (PT. 128)
(5) - Chị đừng nên giấu kỹ trong lòng những
chuyện buồn. Kể ra thì lòng chị sẽ nhẹ nhàng,
thanh thản hơn. (Ngữ liệu trực tiếp)
Trong câu (3), (4) Kể ra có thể được lược bỏ
mà câu vẫn đúng ngữ pháp và lọn nghĩa. Còn
trong câu (5), Kể ra là một tổ hợp từ tự do, đảm
nhiệm chức năng vị ngữ của mệnh đề phụ của câu
điều kiện ẩn từ nếu và không thể lược bỏ được.
Với tư cách là một cụm từ tự do, động từ kể có thể
được thay thế bằng các động từ nói, giãi bày, thổ
lộ... mà không làm thay đổi nghĩa sự tình của câu.
Đây là điều không thể thực hiện được với các câu
(3), (4) nếu không muốn biến chúng thành những
câu kỳ quặc. Tổ hợp từ kể ra trong hai ví dụ này
không thuộc vào thành phần ngôn liệu của câu,
nhưng không phải là yếu tố dư thừa vô giá trị mà
trái lại, sự có mặt của nó đã bổ sung thêm cho câu
những sắc thái, nét nghĩa mới thuộc về sự đánh
giá chủ quan của người nói đối với nội dung mệnh
đề P cũng như đối với người tham gia giao tiếp. Ở
đây, ta có kiểu câu Kể ra + P, mà Kể ra là một
QNTT có ý nghĩa và cách dùng như sau:
- Đứng ở đầu câu, đầu phân câu, thường kết
hợp với phụ từ cũng tạo thành kết cấu
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
425
Kể ra ... cũng P.
- Giả định một suy nghĩ, quan điểm, ý kiến
trước đó khác P hoặc thậm chí trái ngược P (ở
dạng hiện thực hoặc tiềm tàng) từ chính phía
người nói hoặc từ phía những người tham gia giao
tiếp.
- Nói Kể ra P/ Kể ra ... cũng P, người nói
biểu thị ý xác nhận của mình đối với tính thực hữu
của P mà người nói mới nhận ra hoặc mới thừa
nhận sau một quá trình suy ngẫm, cân nhắc, phân
tích cứ liệu, bằng chứng mà mình có được. Tuy
nhiên, người nói vẫn để ngỏ cơ hội phản bác P
cho người đối thoại.
5.2. ... biết đấy, P (P, ... biết (rồi) đấy)
Xét các câu sau:
(6) - Chị cũng biết rồi đấy, em nghèo, anh ấy
cũng nghèo, hai cái nghèo cộng lại thì chỉ có nước
cạp đất mà sống thôi. Ước mơ một túp lều tranh
hai trái tim vàng đã trở nên lỗi thời rồi. Sống bây
giờ là phải có tiền chị ạ. (MChT. 143)
(7) - Chuyện đàn bà chúng tôi các anh biết đấy.
Ai đến tuổi chẳng mong có một tấm chồng. Chưa
có, người nó cứ chống chếnh lo lo đến lạ. (TTTN
I.201)
(8) - Chuyện em làm mất xe đạp các anh biết
đấy. Em đừng giấu nữa. (Ngữ liệu trực tiếp)
Thoạt nhìn, (7) và (8) là những câu giống nhau
về cấu trúc (có bổ ngữ đảo lên đầu câu + chủ ngữ
+ động từ vị ngữ). Thậm chí có thể cùng thêm phó
từ đã (vào trước động từ vị ngữ biết) và rồi vào
sau mà không làm thay đổi nghĩa của bản thân kết
cấu và câu chứa chúng. Nhưng xét kỹ thì không
phải như vậy.
Câu (8) có thể được diễn giải như sau "Việc em
làm mất xe đạp các anh (trong đó có người nói) đã
biết rồi chứ không phải là chưa biết như em nghĩ.
Vì thế em không nên giấu nữa”. Ở đây, các anh
biết đấy là một thành phần thuộc ngôn liệu câu.
Động từ biết trong tổ hợp này có thể được thay thế
bằng một động từ khác biểu thị kết quả của một sự
tri nhận (chẳng hạn: phát hiện ra, nhận ra...) mà
vẫn giữ nguyên nghĩa ban đầu của câu. Điều này
không thực hiện được với các câu (6) và (7).
Thêm nữa, ở (6) và (7), đứng trước biết chỉ có thể
là một đại từ ở ngôi thứ hai (số ít hoặc số nhiều)
chứ không thể ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba
như ở (8). Mặc dù nghĩa của chị cũng biết rồi đấy
và các anh biết đấy có vẻ như là nghĩa có được từ
phép cộng nghĩa của từng thành tố cấu thành
nhưng thực ra kết cấu này có ý nghĩa và cách dùng
không hoàn toàn giống với các anh biết đấy trong
(8). Có thể giải thích vắn tắt QNTT này như sau:
- Thường đứng ở đầu câu, đầu phân câu, dùng
trong khẩu ngữ.
- Được dùng như một tác tử lập luận. Giả
định sự tồn tại của một phát ngôn Q ở trước hoặc
sau câu có chứa ... biết đấy. Trong quan hệ với P,
Q là hệ quả tất yếu được rút ra từ P.
- Người nói áp đặt giả định P là điều mà
người nghe mặc nhiên đã biết, đã hiểu. Người nói
nhắc lại P không phải là sự lặp thừa vô ý mà là để
lưu ý, chỉ hiệu cho người nghe hãy chú ý đến P
với vai trò một luận cứ, một tiền đề quan trọng lập
luận của người nói. Nếu người nghe đã thừa nhận
P thì cũng mặc nhiên phải thừa nhận tính chân
thực và hợp đạo nghĩa của sự tình được nêu ra trong
phát ngôn Q theo đúng ý đồ giao tiếp của người nói.
5.3. Chả trách P
Xét các câu sau:
(9) Anh thì cái gì cũng dễ dàng. Vô tư thế chả
trách trẻ lâu. (TTTN I. 497)
(10) Con người ta khi có tài sản thì khó vô tư
thật. Chả trách tính keo kiệt lại cứ hay rơi vào
anh nhà giàu. (TTTN I. 50)
(11) Chị làm thế, chả trách anh ấy được. (Ngữ
liệu trực tiếp)
Xét về mặt hình thức thì tổ hợp chả trách là
một cụm động từ ở dạng phủ định. Trong câu (11),
Tiu ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài
426
tổ hợp này đảm nhiệm chức năng vị ngữ, ở đó chả
có thể được thay thế bằng không hoặc làm sao,
trách có thể được thay bằng trách cứ, nói, phê
bình... mà không làm câu bị mất hay sai nghĩa ban
đầu. Nhưng trong các câu (9), (10), tổ hợp chả
trách không còn là một tổ hợp cú pháp bình
thường thuộc về nội dung mệnh đề của câu như ở
câu (13) nữa mà đã trở thành một đơn vị chuyên
dụng biểu thị ý nghĩa TT. Với tư cách QNTT, chả
trách là một khối cố định, không thể chêm xen,
thêm bớt bất kỳ thành tố nào vào trước, trong, sau
tổ hợp. Nó cũng không chấp nhận có một chủ thể
của hành động "trách". Nói cách khác, nó phải
được dùng ở dạng vô ngôi. QNTT này có ý nghĩa
và cách dùng như sau:
- Thường đứng ở đầu câu, đầu phân câu, dùng
trong khẩu ngữ.
- Luôn tiền giả định một câu Q đứng trước.
Chả trách là dấu hiệu chỉ báo cho người nghe biết
trong quan hệ với P, Q là nguyên nhân, lý do mà
người nói cho là tất yếu dẫn đến P. Xét về vị trí
xuất hiện trên văn bản hay dòng ngữ lưu thì Q ở
trước P nhưng xét về quá trình tri nhận thì P lại là
sự tình được tri nhận trước, còn Q là điều mà
người nói mới nhận ra hoặc mới được biết và điều
này ít nhiều có phần khác với suy nghĩ, dự đoán
trước đây của người nói. Đặc trưng về cảnh huống
sử dụng này của QNTT chả trách giống với đặc
trưng cảnh huống sử dụng của các QNTT thảo
nào, hèn chi (hèn gì) và do đó chúng có thể thay
thế được cho nhau.
5.4. Ai bảo P
Xét các câu sau:
(12) - Thật tao chưa thấy đưa nào ngu đến mức
học chung với người yêu mà bày đặt nạt nộ quát
tháo như mày. Mày đâu phải là thầy hiệu trưởng
hay giám thị!
- Tại nó chứ bộ! Ai bảo tao giảng hoài mà nó
cứ ngồi giương mắt ếch lên dòm tao chi!
(TrHV.126)
(13) - Cô ả Nhung hôm nay phải phạt. Cái tính
đố hôm qua chưa làm. Cho đáng kiếp. Ai bảo hỏi
Tri không chịu hỏi. (TTNC. 23)
(14) Hạnh phúc chỉ là một cái chăn hẹp. Người
này co thì người kia bị hở. Đâu phải tôi muốn tệ?
Nhưng biết làm sao được. Ai bảo cuộc đời cứ khe
khắt vậy. (TTNC. 49)
(15) - Người ta định về quê thì giữ người ta lại.
- Ai bảo anh ở lại?
- Ai bảo...! Con chó bảo.
- Anh bảo ai là chó. Anh láo vừa chứ!
(TTNC.53)
(16) - Này cô Liên, thế cô định theo cậu Tâm
vào Sài Gòn thật đấy ư? Liên giật mình hốt hoảng:
- Thưa mẹ, ai bảo mẹ thế?
- Lại còn ai bảo nữa. Mà cần gì phải có ai bảo
tôi mới biết. (TTTL.74)
(17) - Con nhỏ đó khinh người.
- Ai bảo mày vậy?
- Cần gì ai bảo - Tôi nhếch mép - Nhà nó giàu,
còn nhà tao nghèo, đương nhiên là nó coi thường
tao. (TrHV. 86)
Trong cả sáu câu trên, tổ hợp từ Ai bảo đều
xuất hiện ở vị trí đầu câu. Tuy nhiên, chúng hoàn
toàn không giống nhau về ý nghĩa cũng như cách
dùng. Ở các câu (12), (13), (14), nếu lược bỏ tổ
hợp từ ai bảo, về cơ bản, phần còn lại của câu vẫn
là một mệnh đề P trọn vẹn (đúng ngữ pháp và lọn
nghĩa). Ở đây, Ai bảo được dùng như một phương
tiện bổ sung các ý nghĩa TT khác thêm vào nội
dung mệnh đề đi kèm. Nó thực hiện vai trò, chức
năng của một QNTT. Về mặt hình thức cấu tạo
nội tại, động từ bảo không thể được thay bằng một
động từ khác cùng biểu thị các hành động nói
năng, chẳng hạn nói, kể, thông báo, tiết lộ...
QNTT này cũng không chấp nhận bất kỳ một sự
chêm xen phó từ chỉ thời gian nào vào trước động
từ bảo. Về mặt ngữ nghĩa, có thể thấy yếu tố ai
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014
427
trong QNTT ai bảo đã không còn có nghĩa của đại
từ nghi vấn vốn có của nó nên kiểu câu có chứa
QNTT này không nhất thiết phải có hình thức hỏi
hoặc giả nếu có thì cũng không đòi hỏi, yêu cầu sự
hồi đáp, đúng hơn là khó hoặc không thể đưa ra
được câu trả lời. Xét trong mối quan hệ với các
câu xung quanh câu có chứa QNTT đang xét, có
thể thấy, liền trước hoặc liền sau câu có chứa
QNTT này thường là một hoặc nhiều hơn một câu
có nội dung mang nghĩa tiêu cực (tạm quy ước là
Q). Trong quan hệ ngữ nghĩa với câu Ai bảo P, Q
là hệ quả kéo theo một cách tất yếu từ P. Nói một
cách rõ hơn, P theo người nói là cái nguyên cớ,
cái lẽ lý giải không thể phủ nhận được cho sự tình
nêu ở Q. Theo đó, các câu (12), (13), (14), chúng ta
lần lượt có Q như sau:
Q12) (tao) nạt nộ quát tháo (như mày nói)
Q13) Cô ả Nhung hôm nay phải phạt. Cái tính
đố hôm qua chưa làm. Chưa làm là vì P -không
chịu hỏi Tri nên không làm được.
Q14) Tôi không muốn hành xử tệ như vậy.
Theo cách nhìn nhận, đánh giá của