TÓM TẮT
Đạo Cao Đài chính thức ra đời tại miền Nam Việt Nam vào ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần
(19/11/1926). Đây là một tôn giáo mới mà trong đó có sự dung hợp giáo lý của nhiều tôn giáo khác
nhau như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo, các tín ngưỡng dân gian. Tất cả yếu tố đó đã
tạo nên một tôn giáo Cao Đài vừa truyền thống, vừa hiện đại. Đặc biệt, đạo Cao Đài có quan niệm tiến
bộ về giới. Bình đẳng giới được thể hiện rất rõ trong giáo lý, trong tổ chức hành chính đạo, trong kiến
trúc và trong đời sống thực hành của cộng đồng tín đồ.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề bình đẳng giới trong đạo Cao Đài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 69 (03/2020) No. 69 (03/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
35
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG ĐẠO CAO ĐÀI
The issue of gender equality in Caodaism
TS. Nguyễn Mạnh Tiến
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Đạo Cao Đài chính thức ra đời tại miền Nam Việt Nam vào ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần
(19/11/1926). Đây là một tôn giáo mới mà trong đó có sự dung hợp giáo lý của nhiều tôn giáo khác
nhau như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo, các tín ngưỡng dân gian. Tất cả yếu tố đó đã
tạo nên một tôn giáo Cao Đài vừa truyền thống, vừa hiện đại. Đặc biệt, đạo Cao Đài có quan niệm tiến
bộ về giới. Bình đẳng giới được thể hiện rất rõ trong giáo lý, trong tổ chức hành chính đạo, trong kiến
trúc và trong đời sống thực hành của cộng đồng tín đồ.
Từ khóa: bình đẳng giới trong đạo Cao Đài, bình đẳng giới, đạo Cao Đài
ABSTRACT
Caodaism was officially founded in South Vietnam on the Full Moon day of 10th month of the Year of
the Tiger (November 19, 1926). This is a new religion in which there is a combination of the doctrines
of many different religions such as Buddhism, Confucianism, Taoism, Christianity, and folk beliefs. All
these factors have created a traditional and modern Cao Dai religion. Especially, Caodaism has the
progressive concept of gender. Gender equality is clearly expressed in dogma, in the administrative
organization, in the architecture and in the practical life of its community.
Keywords: gender equality in Caodaism, gender equality, Caodaism
1. Mở đầu
Đạo Cao Đài là tôn giáo bản địa, ra đời
tại Nam Bộ hồi đầu thế kỷ XX. Đạo Cao
Đài có nhiều ưu điểm: bảo lưu tín ngưỡng
dân gian thờ Trời, thờ Mẫu; bảo lưu được
nhạc lễ Nam Bộ; tính dung hòa tổng hợp
các tôn giáo.v.v. Trong đó, đạo Cao Đài đã
xây dựng một quan niệm tiến bộ về bình
đẳng giới, xem phụ nữ có một vai trò quan
trọng trong cuộc sống và giáo hội Cao Đài.
Đạo Cao Đài có tổ chức hội thánh nữ phái.
Điều đó cho thấy rằng đạo Cao Đài có
quan niệm tiến bộ về bình đẳng giới.
2. Nội dung
2.1. Lý luận về giới và bình đẳng giới
Tại điều 5, Luật Bình đẳng giới của
Quốc hội khóa XI, nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 29
tháng 11 năm 2006 đã giải thích về giới,
bình đẳng giới như sau:
- “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của
nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ
xã hội.
- Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học
của nam, nữ.
- Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị
Email: nguyenmanhtiensg@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
36
trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho
sự phát triển của cộng đồng, gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự
phát triển đó”.
Xã hội phong kiến Việt Nam chịu sự
tác động và ảnh hưởng của Nho giáo với tư
tưởng trọng nam khinh nữ đã khiến vị trí,
vai trò của người phụ nữ bị hạn chế hoặc
mất đi: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” (Một người nam thì có, mười người nữ
xem bằng không).
Cho đến khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, trong bản tuyên ngôn
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định sự bình đẳng, quyền được sống của
mọi công dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh
ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc”.
Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
của phụ nữ, Việt Nam đã xây dựng hệ
thống pháp lý trong đó có Luật Bình đẳng
giới ra đời năm 2006. Trong luật này quy
định rõ sự bình đẳng trong các lĩnh vực
như chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa,
thông tin, thể dục - thể thao, y tế, đời sống
gia đình. Có lẽ sự bình đẳng giới trong lĩnh
vực chính trị thể hiện sự tiến bộ của xã hội
Việt Nam, tiến kịp trào lưu tiến bộ trên thế
giới. Nhờ vậy, phụ nữ Việt Nam ngày càng
phát huy vai trò của mình trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Họ đã được
hưởng những quyền lợi xứng đáng với sự
cống hiến của bản thân.
Tuy nhiên, trong công cuộc xây dựng
bình đẳng giới ở nước ta còn gặp nhiều khó
khăn. Một trong số nhiều khó khăn đó là
giáo lý bất bình đẳng của các tôn giáo. Việt
Nam là nước đa tôn giáo. Số lượng tín đồ
các tôn giáo cộng lại chiếm tỷ lệ không nhỏ
trong tổng dân số cả nước. Giáo lý các tôn
giáo tác động đến đời sống tín đồ mặc
nhiên tác động đến đời sống chung của
toàn xã hội. Những giáo điều quy định về
bất bình đẳng giới không làm cho tín đồ
thấy rằng đó là bất bình đẳng mà họ cho đó
là bổn phận và chấp nhận.
Trường hợp Phật giáo, cho đến tận
bây giờ, Phật giáo vẫn chưa có nữ tu nào
được tấn phong là Đại đức, Thượng tọa,
Hòa thượng. Trong các nghi lễ quan trọng,
chức sắc tăng nhân đều chủ trì. Các ni cô
dù lớn tuổi đến mấy cũng phải đảnh lễ tăng
nhân. Trong giới luật tu hành, những điều
cấm kỵ dành cho Ni đoàn luôn cao hơn
Tăng đoàn.
Trường hợp Công giáo, các Sơ (nữ tu)
không được tấn phong Linh mục, Giám
mục, Hồng y, Giáo hoàng. Các Sơ không
được thực hiện các phép bí tích Công giáo.
Tuy nhiên có một tôn giáo ra đời tại
Việt Nam lại có quan niệm bình đẳng giới
khá tiến bộ đó là đạo Cao Đài. Đạo Cao
Đài ra đời khi chế độ phong kiến còn đang
hiện hữu, với mục đích dung hòa Tam
giáo, lấy Nho giáo làm nền tảng nhưng lại
có quan niệm tiến bộ về Bình đẳng giới,
xem phụ nữ có vai trò quan trọng trong đời
sống nhân sinh và giáo hội.
2.2. Giới thiệu đôi nét về đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài có tên đầy đủ là “Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”, là một tôn giáo bản
địa, ra đời vào những năm đầu thế kỷ XX.
Tính đến nay, đạo Cao Đài đã có hơn 90
năm hình thành và phát triển. Chừng ấy
thời gian chưa phải là dài và đủ để thể hiện
được nét đặc thù văn hóa riêng của mình,
nhưng vẫn khẳng định được vị thế và có
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế,
NGUYỄN MẠNH TIẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
37
tinh thần của một bộ phận cư dân Nam Bộ.
Vào những năm của thập kỷ 20 - thế
kỷ XX, một nhóm công chức theo Tây học,
làm việc cho Pháp đã góp phần làm cho
đạo Cao Đài ra đời và phát triển. Có lẽ
chính ảnh hưởng Tây học của nhóm công
chức này đã tạo nên đạo Cao Đài có cách
nhìn tiến bộ về bình đẳng giới.
Trong đó, ông Quan phủ Ngô Văn
Chiêu vốn tin tưởng và ham mê cầu cơ nên
ông thường lui tới những đàn thỉnh tiên để
xin toa thuốc, nghe đạo lý.v.v. Dần về sau,
ông Ngô Văn Chiêu được cơ bút dẫn dắt
lập nên đạo Cao Đài. Tương truyền rằng
ông Chiêu được Cao Đài Tiên ông chỉ cho
cách thức thờ cúng, cách thức tu hành. Ông
Ngô Văn Chiêu được xem là đệ tử đầu tiên
của Cao Đài Tiên Ông.
Ở Sài Gòn, một nhóm công chức khác
gồm ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang dùng phương pháp xây bàn
của phương Tây để thỉnh Tiên. Ban đầu chỉ
do hiếu kì nhưng dần về sau, các ông cũng
được Ngọc Hoàng Thượng Đế, qua cầu cơ,
thu nhận làm đệ tử. Qua cầu cơ, Ngọc
Hoàng Thượng Đế đã dạy các ông Cao
Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài
Sang hợp nhất với ông Ngô Văn Chiêu để
mở đạo Cao Đài. Từ đó, các ông chia nhau
đi khắp nơi, lập đàn cầu cơ, thu nhận tín
đồ. Đặc biệt, đạo Cao Đài đã thu nhận lãnh
tụ các tôn giáo như hòa thượng, linh mục,
lão sư các chi minh đạo. Các vị này có
lượng tín đồ đông, có cơ sở thờ tự. Nên khi
các vị lãnh đạo tôn giáo này theo đạo Cao
Đài thì có hàng loạt tín đồ của họ cải đạo
theo đạo Cao Đài. Có lẽ đây là sự thành
công của đạo Cao Đài. Không mấy chốc,
đạo Cao Đài có rất đông tín đồ thuộc mọi
tầng lớp: nông dân, công nhân, địa chủ,
quan lại.v.v.
Ngày 23 tháng Tám năm 1926 (Âm
lịch), các chức sắc, tín đồ đạo Cao Đài họp
tại Thánh thất Cầu Kho (nay là Nam Thành
Thánh Thất, phường Nguyễn Cư Trinh,
quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) làm lễ
Khai Tịch đạo. Tại đây, chức sắc Cao Đài
làm tờ Khai tịch đạo gửi chính quyền Pháp
thuộc để chính thức công khai truyền đạo.
Ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần
(1926), chức sắc đạo Cao Đài tổ chức lễ
Khai Minh Đại Đạo tại chùa Gò Kén (Tây
Ninh). Đây là lễ ra mắt đạo Cao Đài.
Từ năm 1930 trở đi, đạo Cao Đài bắt
đầu phân hóa do hoàn cảnh xã hội và do
bất đồng quan điểm về giáo lý, phương
pháp tu học, lập trường yêu nước... mà một
số hệ phái Cao Đài bắt đầu hình thành và
phát triển.
Hiện nay, đạo Cao Đài có 9 Hội thánh
được Nhà nước cấp pháp nhân: Tây Ninh,
Ban Chỉnh Đạo, Tiên Thiên, Truyền giáo
Trung Việt, Cầu Kho Tam Quan, Cao Đài
Bạch Y, Chiếu Minh Tam Thanh, Minh
Chơn Đạo, Minh Chơn Lý. Ngoài ra, có
một số thánh sở Cao Đài nhỏ lẻ cũng được
Nhà nước cấp pháp nhân: Tân Minh
Quang, Nam Thành thánh thất, Liên Hoa
Cửu Cung, thánh thất Bàu Sen, Huỳnh
Quang Sắc, Thanh Tịnh Đàn.v.v.
2.3. Sự bình đẳng giới trong đạo
Cao Đài
Bình đẳng giới trong đạo Cao Đài
không phải là tuyệt đối. Nhưng so với các
tôn giáo khác, sự bình đẳng giới trong đạo
Cao Đài được xem là cởi mở, tiến bộ. Sự
bình đẳng giới trong đạo Cao Đài được thể
hiện trong mọi mặt đời sống cộng đồng
Cao Đài: giáo lý, giáo hội, kiến trúc.v.v.
2.3.1. Sự bình đẳng giới trong đạo
Cao Đài được thể hiện qua giáo lý
Vũ trụ quan Cao Đài khẳng định rằng
trước khi có vũ trụ này thì Vô Cực Lão
Mẫu tức Diêu Trì Kim Mẫu có trước. Sau
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
38
đó từ Vô Cực mới phát sinh Thái Cực tức
Thái Cực Thánh Hoàng (Ngọc Hoàng
Thượng Đế). Từ Thái Cực mới sinh ra
vạn vật.
Trong bài Tán tụng công đức Diêu Trì
Kim Mẫu có ghi:
“Kể từ hỗn độn sơ khai,
Chí Tôn hạ chỉ trước đài linh tiêu,
Lưỡng nghi phân khí hư vô,
Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.
Âm dương biến tạo chơn thần,
Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
Móm cơm vú sữa cũng tay,
Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.”
Cho thấy, đạo Cao Đài có quan điểm
xem trọng vai trò phụ nữ. Xét về bản chất
“đạo Cao Đài cũng bộc lộ truyền thống âm
tính, trọng phụ nữ của văn hóa dân tộc”
(Trần Ngọc Thêm, 1996, tr.556).
Điều đặc biệt thú vị là việc dẫn dắt,
giác ngộ những nhà sáng lập đạo Cao Đài
là các Thánh Mẫu, Tiên Cô. Thông qua
việc lập đàn phù tiên, Cửu vị Nữ Phật, Cửu
Thiên Huyền Nữ đã khuyến thiện và dẫn
dắt các ông Ngô Văn Chiêu, Phạm Công
Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang trong
giai đoạn đầu khai đạo.
Trường hợp ông Ngô Văn Chiêu,
khoảng năm 1920, Ông Chiêu được chính
quyền Pháp thuộc chuyển ra huyện đảo
Phú Quốc làm tri huyện. Ông Chiêu
thường đến chùa Quan Âm để cầu cơ.
Giữa cảnh biển trời mênh mông, Ông
Chiêu được bà Ngô Kim Liên giáng cơ cho
bài thơ:
“Văng vẳng nhạn kêu tiếng giữa thu,
Rằng trời cùng đất vẫn xa mù,
Non Tây ngoảnh lại đường gai góc,
Gắng chí cho thành bậc trượng phu.”
(Cơ quan Phổ thông giáo lý Đại đạo,
2002, tr.73)
Bà Ngô Kim Liên còn giáng cơ cho
ông Chiêu nhiều bài thơ nữa. Khi niềm tin
của ông Chiêu đủ lớn thì Cao Đài Tiên
Ông (Ngọc Hoàng Thượng Đế, Giáo chủ
đạo Cao Đài) bắt đầu giáng cơ chỉ cách
cho ông Chiêu tu hành, thờ phượng. Ông
Ngô Văn Chiêu là tín đồ đầu tiên của đạo
Cao Đài.
Nhóm công chức Cao Quỳnh Cư,
Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, khoảng
những năm 1925, tại Sài Gòn, thường tổ
chức xây bàn cầu cơ vào tối thứ bảy hàng
tuần. Lần đầu tiên, có một vong linh tên
Đoàn Ngọc Quế nhập bàn cho các ông
bài thơ:
“Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài,
Những ngỡ trao duyên và ngọc các,
Nào ngờ phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông nước,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư quằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.”
(Cơ quan Phổ thông giáo lý Đại đạo,
2002, tr.103)
Qua xây bàn, các ông Cư, Tắc, Sang
biết được bà Đoàn Ngọc Quế tên thật là
Vương Thị Lễ, con gái của Đốc phủ
Vương Quan Kỳ. Thương cho cô gái mạng
bạc, thác vì mối tình duyên lận đận, các
ông thường xuyên mời thỉnh cô Lễ về trò
chuyện. Thông qua cô Lễ, các ông Cư,
Tắc, Sang lần lượt được tiếp xúc với các
cô Hớn Liên Bạch, Diêu Trì Kim Mẫu.
Chính các bà đã dẫn dắt các ông Cư, Tắc,
Sang vào đạo.
Trong tờ Khai tịch đạo gửi chính
quyền Pháp lúc bấy giờ có 28 người đại
diện ký tên. Đứng đầu danh sách là bà Lâm
Hương Thanh. Bà Lâm Hương Thanh là
một đại điền chủ, thương gia giàu có ở
Vĩnh Long. Bà theo đạo Cao Đài và có
nhiều công lao đóng góp cho đạo. Việc đưa
NGUYỄN MẠNH TIẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
39
bà đứng đầu danh sách xin mở đạo là chủ ý
của những người thành lập đạo Cao Đài vì
họ cho rằng để một phụ nữ đứng đầu danh
sách như thế sẽ thuận lợi hơn.
Quan điểm trọng phụ nữ được khẳng
định trong Thánh ngôn hiệp tuyển quyển 1,
trang 71, đoạn dạy việc lập nữ phái Cao
Đài như sau: “Đường Thị! Thầy giao phe
nữ cho con lập thành, chẳng phải vì đàn bà
mà sớm nồi cơm, chiều trả cháo. Phần các
con truyền đạo kỳ phổ độ này cũng lắm
nặng nề. Nam biết thành tiên phật, chứ nữ
lại không sao? Thầy đã nói Bạch Ngọc
Kinh có cả nam và nữ, mà phần nữ lấn
quyền hơn nam nhiều”.
Trong Thánh giáo Đức Diêu Trì Kim
Mẫu – Lòng Từ Mẫu năm 1971- 1986
(trang 46) có ghi bài cơ bút của Diêu Trì
Kim Mẫu như sau:
“Nữ nam phân cách bởi hồng trần,
Diện mạo hình hài với xác thân,
Bổn tánh chơn như đâu có khác,
Con nào cũng có vị nguyên nhân.”
Như vậy, giáo lý Cao Đài giải thích rõ
nam, nữ chỉ khác nhau về hình hài còn
bản chất chân, thiện, mỹ của nam và nữ
giống nhau.
Giáo chủ đạo Cao Đài là Ngọc Hoàng
Thượng Đế. Tuy nhiên, đạo Cao Đài còn
thờ một đấng thiêng liêng nữa là Diêu Trì
Kim Mẫu. Ngọc Hoàng Thượng Đế và
Diêu Trì Kim Mẫu là hai đấng thiêng liêng
được tín đồ Cao Đài đặc biệt tôn kính,
phụng thờ. Hàng năm, đạo Cao Đài tổ chức
hai kỳ lễ lớn: Vía Ngọc Hoàng Thượng Đế
ngày mùng 9 tháng Giêng (Âm lịch) và Đại
lễ Hội Yến Diêu Trì Cung ngày Rằm tháng
Tám (Âm lịch). Hai đại lễ này thu hút gần
100.000 người tham dự.
Đạo Cao Đài thờ Đức Chí Tôn nhưng
lại thờ Đức Diêu Trì Kim Mẫu. Cách thờ
này thể hiện lối tư duy lưỡng phân lưỡng
hợp và phản ánh đậm nét chế độ Mẫu hệ,
Phụ quyền. Người Cao Đài gọi Đức Chí
Tôn là Thầy, gọi Đức Diêu Trì Kim Mẫu là
Mẹ. Cách gọi này chịu ảnh hưởng từ cách
gọi những vị Thánh của các con nhang, đệ
tử trong tín ngưỡng thờ Mẫu.
Chức sắc, tín đồ Cao Đài được phân
biệt qua cách ăn mặc. Tín đồ mặc trang
phục toàn trắng. Chức sắc tùy theo cấp có
trang phục riêng. Khi tiến hành nghi thức
tại Đền thánh, chốn phụ quyền, chức sắc
mặc y phục và quỳ đúng vị trí. Nhưng khi
hành lễ tại Báo Ân Từ, chốn mẫu hệ, các
chức sắc và tín đồ mặc y phục toàn trắng
như nhau. Chức quyền không thể hiện ở
đây. Theo đạo Cao Đài, mọi chức sắc, tín
đồ đều bình đẳng trước Diêu Trì Kim Mẫu.
2.3.2. Sự bình đẳng giới trong đạo
Cao Đài được thể hiện qua kiến trúc
Đạo Cao Đài rất chú trọng dung hòa
yếu tố Âm – Dương nên trong kiến trúc, sự
dung hòa hai yếu tố này cũng được thể hiện
rất rõ.
Đạo Cao Đài xây dựng Báo Ân Từ để
thờ Đức Phật Mẫu. Báo Ân Từ được xây
dựng đồ sộ với hình thức trang trí hoa văn,
điển tích cũng không kém phần rực rỡ.
Điều đó cho thấy bên cạnh đền Thánh nguy
nga, nơi thờ ông Cha Trời quyền uy, thì có
điện thờ Đức Phật Mẫu, bà Mẹ Đất của
toàn thể tín đồ. Đạo Cao Đài cho lập Báo
Ân Từ để thờ Đức Phật Mẫu bên cạnh đền
Thánh, nơi thờ Đức Chí Tôn “thể hiện ý
thức thờ tự cặp đôi, đối sánh Âm - Dương,
Trời - Đất qua việc đặt thờ vị trí tối cao
dành cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế
(Cha Trời) và Diêu Trì Kim Mẫu (Mẹ
Đất)” (Trần Hồng Liên, 2009).
Khi vào bên trong thánh thất Cao Đài,
bao giờ cũng thấy tín đồ nam nữ phân hai
ban: Nam bên phải, nữ bên trái (nhìn từ
ngoài vào), bên trái thuộc dương, bên phải
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 69 (03/2020)
40
thuộc âm. Nam (dương) đứng bên âm, nữ
(âm) đứng bên dương thể hiện tính dung
hoà âm dương (trong âm có dương, trong
dương có âm).
Trên thiên bàn có đôi đèn âm dương.
Hai ly nước: ly nước trắng thuộc dương, ly
nước trà thuộc âm.
Hiệp thiên đài có hai tháp cao: tháp
bên phải thuộc âm, tháp bên trái thuộc
dương. Tháp bên phải đặt một cái chuông
lớn nên gọi là Bạch Ngọc chung đài. Tiếng
chuông thanh tao như tiếng người phụ nữ
nên chuông thuộc âm, vì thế chuông được
đặt bên nam (dương). Tháp bên trái đặt một
cái trống lớn nên gọi là Lôi Âm cổ đài.
Tiếng trống trầm, ồm ồm như giọng nam
nên cái trống thuộc dương và được đặt bên
nữ (âm).
Ở mặt tiền đền thánh có hình ông
Thượng Trung Nhựt và bà Lâm Hương
Thanh. Điều đó cho thấy rằng tính bình
đẳng nam nữ trong đạo Cao Đài. Ông
Thượng Trung Nhựt là Quyền Giáo tông,
chức sắc cao nhất của Cửu trùng đài. Bà
Lâm Hương Thanh là Nữ Đầu sư, chức sắc
đứng đầu hội thánh nữ phái.
Ở trên chót lầu chuông có đắp hình
một cái hồ lô và cây gậy, là bửu pháp của
Lý Thiết Quả (một vị Tiên trong Bát Tiên)
thuộc dương. Ở trên chóp lầu trống có đắp
hình giỏ hoa lam, là bửu pháp của Long Nữ
(đồng tử của Phật Quan Thế Âm ở núi Phổ
Đà) thuộc âm. Ở các thánh thất, toà thánh
thuộc chi phái Cao Đài khác, người ta đặt
chữ Nhật (dương) trên nóc lầu chuông, chữ
Nguyệt (âm) trên nóc lầu trống, thay tượng
ông Ác là tượng Thanh Long, tượng ông
Thiện là tượng Bạch Hổ.
2.3.3. Sự bình đẳng giới trong đạo
Cao Đài được thể hiện qua tổ chức hành
chánh đạo
Về tổ chức hành chánh đạo, đạo Cao
Đài có cả một hệ thống chức sắc nữ phái và
có quyền hạn ngang bằng chức sắc nam
phái cùng cấp. Đề cao vai trò người phụ nữ
trong đạo Cao Đài tạo nên thế cân bằng
quyền lực giữa chức sắc nam phái và chức
sắc nữ phái, đưa tiếng nói nữ phái lên
ngang bằng nam phái. Sự cân bằng này tạo
nên sự hài hòa trong đời sống cộng đồng
Cao Đài.
Tổ chức hành chánh đạo gồm có ba
đài: Bát quái đài, Hiệp thiên đài và Cửu
trùng đài.
Bát quái đài:
Bát quái đài có nhiệm vụ truyền giáo
pháp cho Cửu trùng đài qua Hiệp thiên đài;
kiểm soát cách hành đạo của hai đài này.
Bát quái đài nắm quyền phán xét, định đoạt
việc siêu hay đọa của linh hồn các tín đồ
liễu đạo (qua đời). Bát quái đài gồm: Tam
giáo Đạo Tổ (Thái Thượng Lão Quân,
Thích Ca Mâu Ni, Khổng Thánh Tuyên
Sư), Tam trấn (Quán Âm Bồ Tát, Thái
Bạch Kim Tinh, Quan Thánh Đế Quân),
Giê-su, Khương Thái Công và Quần Tiên
Hội. Cầm quyền chưởng quản Bát quái đài
là Đức Cao Đài. Quyền của Bát quái đài là
quyền Chí linh. Quyền Vạn linh bằng
quyền Chí linh. Quyền Vạn linh gồm
quyền của ba hội hợp lại. Ba hội đó là: Hội
Nhân sanh, Hội thánh, Thượng Hội.
Hiệp thiên đài:
Hiệp thiên đài có hai nhiệm vụ:
- Nhiệm vụ thiêng liêng là thông công
với Bát quái đài qua hình thức cơ bút. Bát
quái đài thông qua Hiệp thiên đài để truyền
dạy Cửu trùng đài.
- Nhiệm vụ phàm trần là cơ quan giữ
gìn giáo pháp, bảo hộ luật lệ đạo. Đứng
đầu Hiệp thiên đài là Hộ pháp, dưới có
Thượng sanh, Thượng phẩm và Thập nhị
thời Quân chia làm ba chi:
Chi Pháp gồm: Bảo pháp, Hiến pháp,
NGUYỄN MẠNH TIẾN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
41
Khai pháp, Tiếp pháp. Chi này do Hộ pháp
kiêm Chưởng quản.
Chi Đạo gồm: Bảo đạo, Hiến đạo,
Khai đạo, Tiếp đạo. Chi này dưới quyền
Thượng Phẩm.
Chi Thế gồm: Bảo thế, Hiến thế, Khai thế,
Tiếp thế. Chi này do Thượng sanh cai quản.
Chức sắc Hiệp thiên đài do Đức Chí
Tôn chọn (không công cử như chức sắc
Cửu trùng đài).
Dưới Thập nhị Thời quân còn có:
Luật sự, Sĩ tải, Truyền trạng, Thừa sử,
Giám đạo, Cải trạng, Chưởng ấn, Tiếp
Dẫn Đạo Nhơn.
Các cơ quan trực thuộc Hiệp thiên đài
là Bộ pháp chánh, Cơ quan Phước thiện,
Tịnh thất, Ban thế đạo, Đại Đạo Thanh
Niên Hội.
Thập nhị Bảo Quân còn gọi là Hàn
lâm viện Hiệp thiên đài. Thập nhị Bảo
Quân gồm: Bảo Huyền Linh Quân, Bảo
Tinh Quân, Bảo Cô Quân, Bảo Văn Pháp
Quân, Bảo Học Quân, Bảo Y Quân, Bảo
Vật Quân, Bảo Sĩ Quân, Bảo Sa