I. Đặt vấn đề
Quan, hôn, tang, tế là bốn điển lệ có giá trị tinh
thần hết sức quan trọng trong đời sống của người
dân Việt Nam. Mặc dù hiện nay, bốn điển lệ này đã
có nhiều thay đổi nhưng nó vẫn là những quy ước tạo
nên một nền văn hóa lành mạnh.
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX những hủ tục
nặng nề trong nhân dân đã được cụ Phan Bội Châu
cảnh báo, phê phán đả kích mạnh mẽ những tập
quán, phong tục hủ lậu của nông thôn đã và đang
được thi hành. Ông tấn công toàn diện vào những
nghi lễ cơ bản của xã hội, trước hết là những biểu
hiện của tục thờ cúng tổ tiên, tế lễ thần linh.
Đến nay, 15 năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình xa
hoa, lãng phí trong hôn nhân, tế lễ, tang ma lại càng
trầm trọng hơn và nhất là mê tín, hay khoe khoang
và vẫn còn nhiều hủ tục nặng nề trong các gia đình,
dòng họ Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 36 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề quan, hôn, tang, tế của các gia đình, dòng họ ở Thừa Thiên Huế hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Miền Trung - Tây Nguyên
I. Đặt vấn đề
Quan, hôn, tang, tế là bốn điển lệ có giá trị tinh
thần hết sức quan trọng trong đời sống của người
dân Việt Nam. Mặc dù hiện nay, bốn điển lệ này đã
có nhiều thay đổi nhưng nó vẫn là những quy ước tạo
nên một nền văn hóa lành mạnh.
Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX những hủ tục
nặng nề trong nhân dân đã được cụ Phan Bội Châu
cảnh báo, phê phán đả kích mạnh mẽ những tập
quán, phong tục hủ lậu của nông thôn đã và đang
được thi hành. Ông tấn công toàn diện vào những
nghi lễ cơ bản của xã hội, trước hết là những biểu
hiện của tục thờ cúng tổ tiên, tế lễ thần linh.
Đến nay, 15 năm đầu của thế kỷ XXI, tình hình xa
hoa, lãng phí trong hôn nhân, tế lễ, tang ma lại càng
trầm trọng hơn và nhất là mê tín, hay khoe khoang
và vẫn còn nhiều hủ tục nặng nề trong các gia đình,
dòng họ Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế
nói riêng.
II. Vấn đề quan, hôn, tang, tế của các gia đình,
dòng họ ở Thừa Thiên Huế hiện nay
Như chúng ta đã biết, Quan là một loại lễ nghi
nhằm mục đích làm cho người con trai tự nhận thức
được vai trò quan trọng của mình trong xã hội mà ra
sức học tập và thi hành đạo lý, trở thành một nhân tố
tốt cho xã hội. Lễ gia quan xưa kia cũng chính là kỳ
vọng của bậc cha mẹ đặt vào đứa con trai, mong cho
con nên người làm vẻ vang cho dòng dõi và góp phần
xây dựng một xã hội tốt đẹp nên thường tổ chức long
trọng cho họ hàng, xóm giềng cùng biết. Đây chính
là một tập tục tốt đẹp, được người xưa coi trọng, thế
VẤN ĐỀ QUAN, HÔN, TANG, TẾ CỦA CÁC GIA ĐÌNH, DÒNG HỌ
Ở THỪA THIÊN HUẾ HIỆN NAY
? TRẦN NGUYễN KHáNH PHoNG*
* Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế.
nhưng trải qua bao thăng trầm của các thời đại, hiện
nay không còn chút dấu vết gì nữa.
Mặc dù lễ gia quan đã mất, thế nhưng vấn đề
trọng nam khinh nữ lại còn đặt nặng lên đời sống của
những cặp vợ chồng trong gia đình, trong thành viên
của mỗi dòng họ. Dưới đây, chúng tôi chỉ xin nói về
những hủ tục, lạc hậu và những việc chưa được trong
đời sống gia đình, gia tộc ở Thừa Thiên Huế hiện nay
nhằm góp phần hạn chế những việc không đáng có
trong đời sống vật chất lẫn tinh thần, tâm linh để
cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh.
1. Quan niệm về trai, gái
Thừa Thiên Huế là vùng đất có bề dày văn hóa
truyền thống trong gia đình, dòng họ. Trước đây, ở
Huế tính gia trưởng không hoàn toàn cứng nhắc mà
ngược lại “định chế dòng đích ở vùng Huế không cứng
Đồ vàng mã cúng trong ngày 23.5 âm lịch - Ngày thất thủ
kinh đô 1885.
18 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Miền Trung - Tây Nguyên
nhắc trong việc thờ cúng tổ tiên. Con cả có vai trò quan
trọng: nổi bật trong tang lễ trong y phục, cây gậy cầm
tay, bước đi thụt lùi trước linh cữu; nhưng nếu vắng mặt
thì người em kế lên thay thế (không có con trai thì lấy
con trai thứ của người em trai - bởi con cả thừa tự cho
cha). Gia đình con trai thứ vẫn thiết trí thờ vọng tổ tiên,
thờ thần, Phật và bản thân họ có thể phụng sự tổ tông
khi dòng đích không thừa tự hay trưởng tử ở xa quê.
Gia tộc kỳ vọng con trai, nhất là con đầu lòng nhưng
vẫn vui mừng khi đón nhận bé gái chào đời, không
khinh miệt. Lúc còn sống, phận gái lo lắng việc hiếu nhà
chồng lẫn cha, mẹ đẻ; lúc chết, mới chỉ được riêng nhà
chồng thờ cúng. Trường hợp tình duyên trắc trở hồi tôn
hoặc ở rể (không có con trai, con trai sống ở xa) thì con
gái vẫn đảm nhận nghĩa vụ cao cả này, trật tự gia phong
buộc con trai nếu lo lắng mộ phần, phải chu toàn từ bậc
cao, cố, ông bà đến cha mẹ, riêng người con gái, được
theo chữ hiếu tâm thành (có thể xây lăng cho cha mẹ
mà không nhất thiết tuân thủ trật tự trên)”.1
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề trọng nam khinh nữ tại
các làng quê ở Thừa Thiên Huế đang có chiều hướng
quay trở lại, người ta vẫn thường hỏi thăm nhau siêu
âm hoặc sinh con trai hay con gái. Ở những gia đình
bình dân còn có tục lệ nhốt trâu để chờ sinh con trai
mà ăn mừng. Còn nghe tin sinh con gái thì lập tức thả
trâu ra, coi như không mừng gì nữa cả. Hoặc khi nghe
tin vợ chuẩn bị sinh con trai thì người chồng xuống
sông lặn ngụp để cho vợ sinh nhanh và dễ dàng.
Khi sinh con, nhất là con trai, người nhà, dòng họ
coi như đó là một tin mừng lớn vì có con trai để nối
dõi tông đường. Nếu cặp vợ chồng nào chẳng may
sinh con một bề toàn gái thì họ phải sinh thật nhiều,
sinh đến khi nào có con trai thì thôi. Sinh nhiều con
trai cũng thể hiện vai vế của gia đình, dòng họ trong
các sinh hoạt cộng đồng. Chính vì sự mặc cảm, tự ti
của việc trọng nam khinh nữ mà đã có nhiều vụ ẩu đả,
chửi bới thậm chí tuyệt đường lui tới nhà người thân
hoặc nhà thờ họ.
Chính vì trọng con trai hơn con gái khiến việc kết
hôn mà không sinh được con trai trở thành áp lực
nặng nề cho người phụ nữ. Có những trường hợp
khi siêu âm biết con gái thì quyết định phá thai để
Cảnh đội họ ba trong đám cưới.
19Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Miền Trung - Tây Nguyên
đợi sinh đợt khác mong có con trai. Cũng có những
trường hợp rơi vào mê tín dị đoan mà đi cầu đảo,
cúng bái tại các am thờ, điện hoặc lên chùa gửi cửa
Phật để mong có được con trai nhưng cuối cùng vẫn
không được như ý mà còn tiền mất, tật mang, hạnh
phúc gia đình tan vỡ.
Ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Thừa Thiên
Huế cũng rơi vào trường hợp tương tự, người Tà Ôi
trong quan niệm của mình xưa và nay vẫn thích cho
con trai đi học vì họ cho rằng trong xã hội người con
trai là chuẩn mực, trong gia đình người con trai là trụ
cột chính. Sau này bố mẹ già sẽ ở với con trai, con trai
nuôi, nếu con trai có học thì bố mẹ sẽ sung sướng.
Còn con gái thì lớn sẽ lấy chồng về phục vụ cho nhà
chồng thì không nên học. Chính vì lẽ đó mà ngày nay
tỷ lệ học sinh nữ đến trường rất ít và nạn lấy chồng
sớm là một trong những nguyên nhân thất học ở các
em.2
2. Những hủ tục trong hôn nhân
Trước đây, việc cưới xin trở thành nỗi ám ảnh đối
với nhà nghèo, bởi sự tồn tại của tục thách cưới và lệ
tiền cheo. Với các nghi lễ và lệ tục đó, việc cưới xin
thường rất tốn kém “chú rể phải đem trầu cau, rượu
làm lễ cáo yết thần Thành hoàng của làng nhà gái và
nộp tiền lễ cho làng. Nó như một thứ thuế theo lệ làng
mà người nào muốn cưới con gái trong làng đều phải
đóng góp cho làng thì làng mới công nhận cuộc hôn
nhân giữa chàng rể với cô gái đương sự. Nhưng có nơi,
nếu không nộp cheo thì việc rước dâu có thể bị ngăn
trở”.3 Và “Cũng có những trường hợp các cuộc hôn nhân
đã phải tan vỡ vì cha mẹ cô dâu thách cưới quá nhiều
khiến nhà trai không thể nào lo đủ. Hoặc nhà trai bất
đắc dĩ phải đi vay mượn, cũng do đó mà về sau dâu gia
thành ra oán ghét nhau”.4
Để ngăn chặn các tệ nạn bóc lột, mua bán trá hình
trong hôn nhân, dưới thời Nguyễn đã có những quy
định rất cụ thể, rõ ràng, thừa nhận và tôn trọng tục
lệ, nhưng lại có điều chỉnh sao cho phù hợp với gia
cảnh của từng hạng người, nhằm đảm bảo trật tự ổn
định và sự tiến bộ xã hội. Năm 1804, vua Gia Long đã
ra một đạo dụ nói rằng: “Các lễ vật về giá thú phải hợp
với gia cảnh, không được bắt người rể phải vay nợ hay
cầm ruộng đất để cưới vợ”.5 Điều 164, Khoản 2 của Luật
Gia Long quy định: “Việc lấy vợ lấy chồng không được
bắt người ta viết văn tự cầm thế ruộng đất. Tiền cheo,
người cùng làng, giàu thì 1 quan 2 tiền, nghèo thì 3 tiền,
người làng khác, giàu thì 2 quan 4 tiền, vừa thì 1 quan 6
tiền, nghèo thì 6 tiền; trái luật thì lý trưởng phải bị phạt
50 roi”.6 Vua Tự Đức thứ 8 (1855) đã ấn định các lễ vật
cho mỗi đẳng cấp giàu nghèo như sau: “Nếu người
nào không đủ tư lực, không bắt buộc phải theo. Sự bắt
buộc các gia đình phải vay nợ hay bán ruộng để cưới vợ
đều cấm triệt để Kẻ nào, hôm dẫn sính lễ hay đón dâu
lạm dùng nghi lễ, không đúng với giai cấp mình sẽ phải
bị trừng phạt theo luật”.7
Thế nhưng hiện nay, ở Thừa Thiên Huế vẫn có
những gia đình, dòng họ vẫn còn khắt khe trong
chuyện cưới xin như coi trọng tuổi, đặt nặng vấn đề
bói toán, đoán định tướng mạo, tên người, xem ngày
giờ. Hoặc khi nạp lễ thì nhà gái yêu cầu nhà trai phải
chọn người bưng bê lễ vật phải là phụ nữ tuổi từ 18 -
22, trẻ, đẹp, lanh lợi, chưa chồng, còn trinh tiết, chọn
người bưng lễ vật thường là 5 người hoặc chín người
để trùng khớp với quy luật sinh - lão - bệnh - tử - sinh
đối với số 5, hoặc sinh - lão - bệnh - tử - sinh - lão -
bệnh - tử - sinh đối với số 9. Người thân tham gia các
lễ quan trọng trong hôn nhân như lễ tơ hồng, lễ trình
giờ, lễ rước dâu, đón dâu, thì không chấp nhận những
người có tình duyên chắp nối (2 đời vợ, 2 đời chồng),
người neo đơn (mất vợ hoặc mất chồng sớm), vợ
chồng không có con vì sợ xui xẻo cho đôi vợ chồng
trẻ. Hoặc nhà gái phải đòi hỏi nhà trai tiến hành có
lễ họ ba, gồm 1 đội chuyên nghiệp có 20 người, 2
người xách lọng đèn, 2 người ôm 2 con ngỗng to, 4
người gánh kiệu trên có con heo quay, 1 người gánh
2 chum rượu, 4 người gánh kiệu bên trên đặt mâm xôi
ngũ sắc, 7 người còn lại bưng bê mâm ngũ quả, rượu,
trầu cau. Lễ phải tiến hành đúng lúc cúng lễ tơ hồng,
khi vào đến cổng nhà gái 2 người ôm 2 con ngỗng to
phải làm thế nào để 2 con ngỗng đó kêu lên những
tiếng thật to là tốt, gia chủ nhà gái mừng vì niềm hên
đã đến. Việc làm này rất tốn tiền, tốn của và công sức
của nhà trai, vì giá của một lần tổ chức lên đến 10
triệu đồng.
Có những gia đình dòng họ vì mến mộ đạo Phật
nên họ có quan niệm tổ chức đám cưới ở chùa để cho
đôi uyên ương được viên mãn, hạnh phúc suốt đời,
tại nơi đó, cả gia đình nhà gái nhà trai cùng lạy Phật,
cô dâu chú rể nghe thầy đọc 1 bài kinh cầu an hạnh
phúc, đôi nhẫn cưới được thầy niệm chú và trao nhẫn
cưới cho đôi uyên ương, và căn dặn những lời lẽ để
giữ tình viên mãn trọn đời. Thế nhưng trên thực tế,
việc làm này cũng tốn không ít tiền bạc của nhà trai
thường từ 10 - 12 triệu đồng. Sau một thời gian về
ăn ở với nhau, vì nợ nần khó khăn chồng chất nên vợ
20 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Miền Trung - Tây Nguyên
chồng đâm ra cãi vã, ly hôn thì những việc làm trên
chẳng có ý nghĩa thiết thực gì cả.
Tiệc cưới hiện nay thông thường là từ 200 khách
đến 600 khách, hát hò ca nhạc đàn trống inh ỏi,
không còn thanh tĩnh. Thực đúng như Phan Bội Châu
đã từng phê phán cách nay hơn thế kỷ: “Thế mà cũng
mời khách khứa, phô trương xa phí hàng trăm, hàng
nghìn, thậm chí đến hàng vạn; nhà giàu thì hao phí tiền
của, nhà nghèo thì phải cầm bán ruộng đất sản nghiệp.
Ôi! Ky cóp quanh năm, vất vả suốt đời, chỉ lo mỗi một
việc hôn nhân mà trở lại trắng tay”.8
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Thừa
Thiên Huế thì vấn đề hủ tục trong hôn nhân cũng bị
nhiều ràng buộc khắt khe. Đồng bào có tục tổ chức
đám cưới hai lần. Ở lễ cưới lần đầu, khi đã thỏa thuận
về thời gian, nhà trai sẽ gửi đến nhà gái những lễ vật
quý giá đã được hai bên gia đình chấp thuận trong
lễ hỏi như chiêng, ché, nồi đồng, bạc trắng, lợn, trâu,
nếp, rượu. Quà dẫn cưới ít hay nhiều, to hay nhỏ là
tùy thuộc vào sự thách cưới của nhà gái. Đó chính là
nguyên nhân khiến không ít chàng trai nghèo hèn,
mồ côi sẽ khó vượt qua lễ cưới lần đầu và suốt đời lâm
vào cảnh lẻ loi, đơn chiếc. Trong thực tế, có những lứa
đôi vì quá thương nhau, vì nặng gánh chung tình đã
không chịu buông xuôi theo lẽ thuận dòng đời mà tập
tục sắp đặt, họ cố công chạy vạy, xoay sở để trang trải
khoản tiền cưới mặc dù cả chàng trai lẫn cô gái đều
hiểu, phía trước, tương lai không mỉm cười cùng họ.
Lễ cưới lần hai với cái tên lễ kết thúc trọn vẹn, đây
là một lễ thức mang tính chất bắt buộc, vừa nhằm tạ
ơn thần linh đã phù hộ cho lứa đôi có được những
tháng ngày bên nhau vẹn tròn, hạnh phúc, vừa còn tỏ
ý rằng, đến đây, họ hàng nhà trai đã thanh toán xong
khoản mua nàng dâu nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung
sức lao động cho gia đình. Lễ cưới lần thứ hai thực sự
là nỗi ám ảnh của biết bao cặp vợ chồng nghèo khó.
Rất nhiều trường hợp, vợ chồng suốt một đời tích
góp, cóp nhặt, tần tảo vẫn không lo xong, để đến nổi
đời con, thậm chí đời cháu của họ phải cáng đáng, lo
tổ chức lễ cưới lần thứ hai cho ông bà, cha mẹ mình.9
Trong 5 năm trở lại đây (2008 - 2012) tỷ lệ tảo hôn
trên địa bàn vùng núi Thừa Thiên Huế dao động từ
7,2 đến 12,8%. Tổng số các cặp tảo hôn trong vòng
5 năm qua là 211. Những năm gần đây, vấn đề tảo
hôn vẫn còn xảy ra nhiều và ở mức cao so với mặt
bằng chung của toàn tỉnh. Tỷ lệ hôn nhân cận huyết
thống dao động từ 0,22 đến 1,0% (hôn nhân trực hệ
trong phạm vi 3 đời theo Điều 10 Luật Hôn nhân và
Gia đình), đặc biệt là năm 2011 có 4 trường hợp kết
hôn cận huyết thống chiếm 1% (trên tổng số cặp kết
hôn trong năm).
Bảng 1. Tỷ lệ tảo hôn, kết hôn cận huyết thống
trên địa bàn vùng núi Thừa Thiên Huế
Năm
Tổng
số
cặp
kết
hôn
Tảo hôn
Tỷ
lệ
%
Kết
hôn
cận
huyết
thống
Tỷ lệ
%
2008 360 26 7,2 1 0,28
2009 458 39 8,5 1 0,22
2010 405 52 12,8 2 0,49
2011 404 43 10,6 4 1,0
2012 503 51 10,1 2 0,4
Tổng
cộng 2.130 211 9,9 10 0,46
Nguyên nhân của tình trạng trên là do trình độ
dân trí còn thấp, nhận thức của người dân còn hạn
chế, chưa áp dụng khoa học kỹ thuật để giải phóng
sức lao động, nên kết hôn sớm để có thêm nhân lực
lao động trong gia đình. Và những người có quan hệ
cận huyết kết hôn với nhau họ quan niệm sẽ gần gũi
hơn, thân thiết hơn và đặc biệt là không phải phân
chia tài sản cho người ngoài, không sợ mất con, mất
của.10
3. Vấn đề tang ma và tế lễ
Nhằm dẹp bỏ những cái không đáng có, những
cái thường gây khó khăn cho gia đình nghèo, cho
những dòng họ trong việc tang ma, tế lễ thì Điều
lệ hương đảng thời Gia Long đã quy định việc dân
làng có tang như sau: “kẻ giàu thì giúp của, kẻ túng thì
giúp sức, kẻ biết lẽ thì trông đỡ việc tang còn cỗ bàn
ăn uống nhiều ít thì tùy ở nhà tang, không được vin lê
đòi hỏi”, mồ mả thì “chẳng qua chọn lấy nơi cao ráo,
lánh năm mối lo là những nơi đầu non, đuôi nước, chùa
miếu, binh lửa, thị thành, để được yên tĩnh cho yên lòng
người làm con thôi, chứ cấm tính việc kết phát, nhẹ dạ
nghe lời thầy địa lý, sáng chôn chiều bới, di cải không
thường, tấm lòng thương xót không còn gì nữa".11 Thế
nhưng không chỉ trước đây mà hiện nay mỗi khi có
việc tang tế, chúng ta thường gặp cảnh “ăn uống kể
đến mấy lần, cỗ bàn phải có nhiều món, danh là báo
hiếu, thực là nợ miệng".12
21Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Miền Trung - Tây Nguyên
Việc này, cụ Phan Bội Châu cũng đã lên án “nhân
cha mẹ chết, muốn lấy tiếng là có hiếu mà giết bò, giết
dê, mời khách khứa, xóm làng hàng họ, thổi kèn, đánh
trống ầm ĩ suốt ngày, mượn cái chết để mua vui cho
người sống, lấy việc buồn làm việc vui”.13 Và thực tế, ở
Thừa Thiên Huế hiện nay, những gia đình, dòng họ
mỗi khi có đám to, kỵ chạp, thì con cháu hưởng cỗ
đám trắng cả rạp, ăn uống mời mọc hỉ hả. Và xe đám
đi dọc đường thì rải giấy vàng bạc như bươm bướm,
làm khổ người phu vệ sinh. Sau đó thì lo xây mồ cao
to bề thế, tốn kém hàng trăm triệu, hay hàng chục
triệu. Với quan niệm, sống gửi thác về, con người đã
có sinh là có tử, cho nên làng xã, dòng họ nào cũng có
khu nghĩa trang. Có những ngôi mộ của những người
còn sống như các trường hợp ở thôn An Bằng, xã Vinh
An, huyện Phú Vang, người ta đua nhau xây lăng mộ,
có những ngôi mộ phá dỡ xây lại đến hai hoặc ba lần
mới ưng ý. Có những khu lăng mộ hoành tráng tốn
cả tiền tỷ, đó chính là những hủ tục lạc hậu mà người
dân không nên làm.
Đã có nhận xét cho rằng: “Tôn vinh thần linh là nét
văn hóa nổi bật của người Việt Nam nói chung, của cư
dân Huế nói riêng. Nó thể hiện lòng mong mỏi về một
cuộc sống hài hòa, cân bằng với tự nhiên, khao khát đạt
được thành quả xứng đáng trong lao động sản xuất để
vươn tới một xã hội phồn vinh, hạnh phúc. Nó bao gồm
cả mặt tích cực làm thăng hoa cuộc sống, nhưng cũng
không thiếu mặt tiêu cực gây nên sự trì trệ, khép kín. Vì
vậy, trong thời đại ngày nay, chúng ta cần nghiên cứu
bảo lưu giá trị đích thực của tín ngưỡng này, đồng thời
phát huy khoa học kỹ thuật để hạn chế những hủ tục do
đó mà ra”.14 Vậy những hủ tục đó là gì?
Một thực tế hiện nay ở các làng xã Thừa Thiên Huế
“Hầu hết các họ dù lớn hay nhỏ đều đặc biệt chú ý đến
việc xây dựng nhà thờ họ và nhìn chung quy mô rất lớn.
Thậm chí các họ lớn chia thành nhiều chi phái, ngoài
nhà thờ chung, mỗi chi phái còn xây dựng nhà thờ
riêng Các làng nhỏ ở ven biển, ven đầm phá cũng chú
ý đầu tư xây dựng nhà thờ họ. Nhà thờ đối với con cháu
trong họ cũng gần giống như ngôi đình đối với cư dân
trong làng”.15 Còn đối với mỗi gia đình, dòng họ nhỏ
“trong thực tế hiện nay, nhiều trường hợp các nghi lễ
thờ cúng tổ tiên đang được phát triển theo hướng phô
trương hình thức. Ngày giỗ bày biện mâm cao cỗ đầy,
ăn uống linh đình đến mức việc cúng lễ chỉ là cái cớ”.16
Việc mê tín dị đoan trước đây cũng có lúc phát
triển ở trong dân, điều này đã khiến cho vua Gia Long
cũng phải quy định “từ nay dân gian như có đau ốm,
chỉ nên cầu thuốc để trị, cẩn thận sự đi đứng, nhất thiết
chớ nên tin nghe bọn yêu tà mà cầu cúng xằng xiên”.17
Việc người xưa nhắc nhở là vậy, thế mà hiện nay, chưa
có số liệu thống kê hoặc điều tra xã hội học cho biết
ở Thừa Thiên Huế có bao nhiêu cơ sở am điện, đền
miếu, chùa chiền phục vụ cho việc bói toán. Nhưng
qua thực tế thì thấy rằng người dân đua nhau đi xem
bói rất nhiều, diễn ra hầu như quanh năm mà cao
điểm nhất là 3 tháng đầu năm, sau khi ăn tết âm lịch
xong.
Những người đi xem bói với mục đích, coi vận
mạng trong năm mới có hanh thông hay không?
Coi về đường tình duyên, coi về đường con cái, coi
về đường công danh sự nghiệp, coi ngày khởi công,
động thổ, khánh thành, mở quán, đặt đá, xây lăng mộ,
đi làm ăn xa, mở ngành nghề, cửa hàng kinh doanh,
coi mồ mả kết để cúng tạ Bên cạnh việc đi xem bói
là việc đi xin xăm đầu năm tại các đền, chùa. Ở Huế
cứ sau tết vài ngày thì tại các cơ sở thờ tự như chùa
Ba Đồn, chùa Thuyền Tôn thường hay có tục xin xăm,
mọi người hồ hởi, đủ mọi lứa tuổi, thành phần, giới
tính đến lạy Phật xin xăm, gieo quẻ, nhờ thầy giải xăm
để biết trong năm việc gì cần làm, nên tránh. Hoặc
tại điện Hòn Chén, đền Thiên Sanh, các điện thờ tự
phát tại các gia đình cũng có tục xin xăm, cầu đảo
thần linh. Và cũng có không ít trường hợp sau khi bốc
được quẻ xăm xấu thì đâm ra bi quan, chán nản, bỏ
dở nhiều cơ hội làm ăn, gia đình tan nát. Còn những
người được quẻ xăm tốt thì hồ hởi, cúng tạ nhưng
xăm tốt hay xấu, thầy bói hay hoặc dở đều do “phước
chủ” của mình, do bàn tay mình làm nên.
Trong đời sống làng quê và cả ở thành thị Thừa
Thiên Huế hiện nay vẫn đang nở rộ tình trạng đồng
bóng. Mà thường thể hiện rõ nét nhất trong các đợt Các thầy cúng người Tà Ôi đang chữa bệnh bằng mê tín.
22 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng
Miền Trung - Tây Nguyên
làm đám chay của các gia đình, dòng họ “Trong lễ trai
đàn (hay trai đàn bạt độ) là đại lễ của một dòng họ hay
chi phái từ một tín ngưỡng pha trộn của Đạo giáo và
Phật giáo Bắc tông, nhằm giải oan cho các vong hồn
được siêu thoát. Trong lễ này sẽ có tổ chức ngồi đồng
để người sống có cơ hội tiếp xúc với linh hồn người thân
và hò hát khi đưa đò để vong linh đoạn tuyệt với quá
khứ đau thương, trở về nơi an nhiên cực lạc. Trên thực
tế, việc ngồi đồng do tín chủ yêu cầu, không thuộc vào
nghi lễ chính, việc hò hát khi đưa đò cũng linh hoạt về
hình thức, thời gian do sự thỏa thuận và khả năng của
chủ, của thầy.
Có hai hình thức đồng bóng thường gặp, tạm theo
quan hệ với tín chủ mà phân thành “đồng đuổi” và
“đồng thương”.
Đồng đuổi diễn ra khi cúng thí thực, trước lễ khai
ngục trị đàn, ít ra, cũng trước khi hầu “đồng thương”.
Đây là cuộc gọi các cô hồn ngoại tộc, ma tà quỷ dữ, cho
chúng được ăn uống, sau đó nhập xác đồng rồi tống
tiễn đi nơi khác, để các vong hồn của dòng tộc đang
được cứu vớt kh