Chiến tranh thế giới thứ hai (cũng được nhắc đến với
tên gọi Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh thế
giới thứ hai, hay Đại iến thế giới lần thứ hai, ) là
cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm
1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng
Đồng Minh và phe Trục theo chủ nghĩa phát xít. Hầu
hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc
chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực và Nam Mỹ. Cho
đến hiện nay, nó là cuộc chiến rộng lớn và tai hại nhất
trong lịch sử nhân loại.[1]
Các nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều
và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hòa
ước Versailles, đại khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng
chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc
chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức xâm lược Ba
Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, một số người khác
tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung ốc vào ngày 7
tháng 7 năm 1937, còn một số khác thì tính vào một
ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu
vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai
cuộc thế chiến thực ra chỉ là một và được chia ra bởi
một cuộc ngừng bắn.[2]
28 trang |
Chia sẻ: thuychi16 | Lượt xem: 994 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn hóa, lịch sử - Chiến tranh thế giới thứ hai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chiến tranh thế giới thứ hai
Chiến tranh thế giới thứ hai (cũng được nhắc đến với
tên gọi Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh thế
giới thứ hai, hay Đại iến thế giới lần thứ hai,) là
cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm
1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng
Đồng Minh và phe Trục theo chủ nghĩa phát xít. Hầu
hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc
chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực và Nam Mỹ. Cho
đến hiện nay, nó là cuộc chiến rộng lớn và tai hại nhất
trong lịch sử nhân loại.[1]
Các nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều
và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hòa
ước Versailles, đại khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng
chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc
chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức xâm lược Ba
Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, một số người khác
tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung ốc vào ngày 7
tháng 7 năm 1937, còn một số khác thì tính vào một
ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu
vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai
cuộc thế chiến thực ra chỉ là một và được chia ra bởi
một cuộc ngừng bắn.[2]
Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc
Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, ái Bình Dương và
phần lớn của Đông Á và Đông Nam Á. Cuộc chiến kết
thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng
5, 1945 (theo giờ Berlin, còn theo giờ Moskva là ngày
9 tháng 5) nhưng vẫn còn tiếp diễn tại châu Á cho đến
khi Nhật đầu hàng vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến tranh
toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị
đánh bom hàng loạt. Khoảng 70 triệu người đã bị chết
do cuộc chiến này (thống kê vẫn tiếp tục nghiên cứu),
kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức ốc
xã (Holocaust). 60% người chết là thường dân, chết vì
bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. iệt
hại nặng nhất là Liên Xô với 23 tới 27 triệu người chết,
trong khi theo phần trăm dân số thì là Ba Lan với 16%
(5,6 triệu người chết so với 34,8 triệu người trước chiến
tranh[3]).
Vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực, ra-đa vv là
một số phát minh trong cuộc chiến.
Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai phái: một
phía chịu ảnh hưởng phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu,
còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước phụ
thuộc Hoa Kỳ nằm trong kế hoạch khống chế chính trị
thông qua viện trợ kinh tế mang tên Kế hoạch Marshall
trong khi các nước kia trở thành các nước chủ nghĩa
cộng sản phụ thuộc Liên Xô. Tây Âu liên kết đồng minh
trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, trong khi
các nước Đông Âu liên kết đồng minh theo Hiệp ước
Warszawa. Các liên minh này đóng vai trò quan trọng
trong Chiến tranh Lạnh sau này. Tại châu Á, sự chiếm
đóng Nhật Bản của quân đội Hoa Kỳ đã Tây hóa nước
này, trong khi Trung ốc bị chia ra thành hai nước:
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Trung
Hoa Dân quốc tại Đài Loan.
1 Hoàn cảnh và nguyên nhân
Lý do dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai khác nhau
trong mỗi nơi giao chiến. Tại châu Âu, lý do nằm xung
quanh hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất: Đức
muốn tránh phải tuân theo các điều kiện trong Hòa ước
Versailles, chủ nghĩa phát xít ngày càng phổ biến và các
lãnh tụ chủ nghĩa này có tham vọng cao, trong khi tình
hình không ổn định tại Trung Âu và Đông Âu sau khi
Đế quốc Áo-Hung tan rã làm chiến tranh dễ xảy ra.
Tại ái Bình Dương, ý định biến thành cường quốc
số một của Nhật Bản và sự thắng thế của một số tướng
lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ chiếm Trung
ốc và các thuộc địa lân cận (của Anh, Pháp) để thoả
mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không
thể tự đáp ứng được, cuối cùng đã cuốn Nhật Bản vào
chiến tranh.
1.1 Tình hình châu Âu
1.1.1 Sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít
Vào thập niên 1920 và 1930, chế độ phát xít giành được
quyền lực tại Ý và Đức trong khi các đảng phát xít
khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường Trung
Âu. Riêng tại Đức, đảng Đức quốc xã và thủ lĩnh Adolf
Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính quyền kiểu
mẫu. Họ đã khơi dậy và khai thác niềm tự hào dân
tộc của người Đức, cũng như các nền tảng trụ cột của
chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân
thủ chính quyền. Các sự kiện này khiến Đức trở thành
một nước hùng mạnh với quân đội mạnh được xây
dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công
nghiệp phát triển nhanh trong môi trường khuyến
khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng trong
việc giành lại đất đai đã bị mất sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất và danh dự quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini
1
2 1 HOÀN CẢNH VÀ NGUYÊN NHÂN
cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít thành
công hơn.
ủ lĩnh Đức quốc xã, Adolf Hitler, đã trình bày tham
vọng của mình ngay từ năm 1924, trong cuốn tự truyện
Mein Kampf, cụ thể như sau:
Nước Đức sẽ trở thành “bá chủ của thế giới”. Trước
hết, phải tính sổ với nước Pháp, “kẻ thù truyền
kiếp của dân Đức”. Sau khi đã tiêu diệt được Pháp,
Đức phải bành trướng về hướng Đông – chủ yếu là
chiếm đất của Nga để giành lấy "không gian sinh
tồn" (tức là mở rộng lãnh thổ và tài nguyên), nước
Đức sẽ không còn bị bó hẹp trong lãnh thổ bé nhỏ
hiện tại mà sẽ trở thành một đại quốc có lãnh thổ
rộng bao la.
Về tính chất của nhà nước ốc xã tương lai,
Hitler nói rõ rằng sẽ không có cái trò “dân chủ
ngu xuẩn” và rằng Đế quốc thứ Ba sẽ được đặt
được một thể chế độc tài.
Hitler xem mọi đời sống như là sự tranh đấu
trường kỳ và thế giới như là khu rừng, trong đó
chủng tộc nào mạnh hơn sẽ sống sót và thống
trị. Đây là điều cốt lõi của tư tưởng ốc xã về
tính ưu việt của chủng tộc Aryan (người Đức). Và
nếu chủng tộc Aryan muốn vượt lên trên thì phải
chà đạp những chủng tộc khác, đặc biệt là những
chủng tộc mà Hiler xem là cỏ rác – đó là Do ái
và Slav (người Nga).
Sau khi Hitler lên nắm chính quyền, ông ta đặt ưu tiên
vào việc tái tạo quân đội. Đức bỏ tiền ra để nghiên cứu
các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp
quân sự. Trong khi đó, các nhà tài phiệt Anh, Mỹ và
phương Tây đã cung cấp tài chính cho Hitler vào những
năm 1930 để ông ta có thể chi trả cho các hoạt động
chính trị cũng như giúp Đức gây dựng nền công nghiệp
quân sự (vấn đề mối quan hệ tài chính của Đức ốc
xã với các tập đoàn tư bản Mỹ được che giấu triệt để
đã được nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng Anthony
Suon làm rõ trong cuốn sách “Phố Wall và sự nổi lên
của Hitler” [4]). Các tài liệu mới giải mật từ kho lưu trữ
Hoa Kỳ cho thấy ượng nghị sĩ Presco Bush (cha của
Tổng thống Mỹ thứ 41 và ông nội của Tổng thống Mỹ
thứ 43) là một trong những nhà tài phiệt Mỹ đã tham gia
giao dịch với các kiến trúc sư tài chính của chủ nghĩa
phát xít[5].
Vào năm 1936, Hitler tái chiếm đóng Rhineland, Anh-
Pháp bỏ qua vấn đề này. Giới chức Anh, Pháp, Mỹ
không chỉ bỏ qua sự trỗi dậy của Đức ốc xã, mà còn
tích cực đổ tiền vào nền kinh tế Đức, tạo điều kiện cho
bộ máy chiến tranh của phát xít Đức phát triển. Hãng
sản xuất vũ khí danh tiếng của Anh Vickers-Armstrong
đã cung cấp vũ khí hạng nặng cho Đức, trong khi các
công ty Mỹ như Pra & Whitney, Douglas, Bendix
Aviation cung cấp cho Đức các bằng sáng chế, bí mật
quân sự và các động cơ máy bay tối tân. ủ tướng Anh
Stanley Baldwin tóm tắt vấn đề vào tháng 7/1936 như
sau: “Nếu chiến sự có diễn ra ở châu Âu, thì tôi mong
được chứng kiến cảnh tụi Bolshevik (Liên Xô) và Đức
ốc xã nện nhau” [6].
1.1.2 Quan hệ giữa các nước châu Âu
Trong các năm 1936-1937, Liên Xô đã giúp đỡ những
người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại chế độ phát
xít Tây Ban Nha của Franco được Adolf Hitler bảo trợ,
nhưng Liên Xô lại không được Anh, Pháp ủng hộ tích
cực. Ngược lại, từ tháng 11 năm 1937, Anh-Pháp đã mở
nhiều cuộc hội đàm với các thủ lĩnh Đức ốc xã tại
Obersanzberg. Họ cho rằng chế độ của Hitler đã trở
thành thành trì chống chủ nghĩa Bolshevik và đã đến
lúc có thể tiến hành cuộc "thập tự chinh" mới về phương
Đông (tức Liên Xô). Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước
Đức quốc xã thôn tính Áo mà không cần nổ một phát
súng. Trong khi Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô
tuyên bố lên án cuộc xâm lược này[7] thì thủ tướng Anh
Neville Chamberlain lại nói: “Chúng ta phải tránh bị
mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ
có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hộiốc Liên có thể dành
cho họ để chống lại sự xâm lược”.[8]
Lễ ký Hiệp ước Munich năm 1938 giữa Anh, Pháp và Đức.
Adolf Hitler đứng giữa, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain
đứng ngoài cùng bên trái
Sau khi Áo bị sát nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng
Sudentenland từ Tiệp Khắc. áng 8 năm 1938, quân
đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới Tiệp
Khắc, sắn sàng tấn công nước này.
Đến lúc này, tham vọng của Hitler đã lộ rõ, Liên Xô đề
nghị với Anh - Pháp việc gạt bỏ những mâu thuẫn giữa
hai phía và thành lập một liên minh nhằm ngăn chặn
Hitler nhưng bị 2 nước này từ chối. Ngược lại, Anh -
Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop
và tham gia ký Hiệp ước Munich trong ngày 29, 30
tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý.
Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm
lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này (Hiệp ước
Munich) ngày 30 tháng 9 mà không hề đếm xỉa đến
Hiệp ước tương trợ giữa Anh và Pháp với chính phủ
Tiệp Khắc. Chính phủ Pháp cũng hùa với Đức và Anh
1.1 Tình hình châu Âu 3
để loại Liên Xô (nước ủng hộ Tiệp Khắc) ra khỏi hội
nghị Munich.
Bằng Hiệp định Munich, Anh và Pháp đã thừa nhận
việc Đức ốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi.
Anh-Pháp cũng sẽ làm ngơ cho Hitler đánh chiếm xứ
Bohemia và Moravia, chiếm phía tây Tiệp Khắc; đặt Ba
Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức
ốc xã[9] Sau khi ký Hiệp định Munich, ủ tướng
Anh là Chamberlain trước khi bay về Anh đã tuyên bố
với Hitler rằng “Bây giờ thì ông có đủ máy bay để tấn
công Liên Xô. Điều đó sẽ khiến cho Liên Xô không thể
đưa máy bay sang Tiệp Khắc được.”
Liền sau Hiệp ước Munich, 2 hiệp ước khác được Anh-
Pháp ký với Đức:
Ngày 6 tháng 12 năm 1938 Pháp tuyên bố xóa
bỏ Hiệp ước tương trợ Pháp-Liên Xô để ký với
Đức bản tuyên bố thừa nhận hiệu lực hoàn toàn
của Hiệp định Munich 1938. Bộ trưởng ngoại giao
Pháp là Georges Bonnet khi tới thăm Ribbentrop
vào năm 1938 đã nói “Nước Pháp rất quan tâm
cho các giải pháp về người Do thái”, nước Pháp
chỉ mong làm sao trục xuất hàng chục ngàn người
Do ái đã tới Pháp.
Ngày 15 tháng 3 năm 1939, hiệp ước Düsseldorf
được ký kết giữa Anh và Đức ốc xã về việc phân
chia quyền lực kinh tế trong khu vực châu Âu cho
hai cường quốc Anh và Đức, trong đó Anh công
nhận Đức có quyền khống chế kinh tế khu vực
Đông Âu.
Như vậy, hai nước Anh và Pháp không muốn tham
chiến, cũng không muốn lập liên minh với Liên Xô cho
nên đã vứt bỏ liên minh quân sự với Cộng hoà Tiệp
Khắc và ký Hiệp ước München vào ngày 29 tháng 9,
buộc Tiệp Khắc phải cắt cho Đức một phần lãnh thổ
để thỏa mãn yêu cầu của Đức. Nhưng không dừng lại ở
đó, đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, Đức đã chiếm đóng
toàn bộ Tiệp Khắc. Liên Xô ra tuyên bố phản đối Đức,
nhưng Anh-Pháp vẫn bỏ qua việc này. ấy tình hình
thuận lợi, cả Ba Lan và Hungari cũng hùa theo Đức,
đưa quân chiếm một phần lãnh thổ Tiệp Khắc. Ý theo
gương Đức, đã tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935
và sát nhập Albania vào ngày 12 tháng 4 năm 1939[10].
Các tài liệu lưu trữ của Anh được công bố vào năm
2013 cho thấy nước Anh không chỉ bỏ mặc Tiệp Khắc
cho Hitler xâm chiếm mà còn tình nguyện trao gần 9
triệu USD tiền vàng vốn thuộc về Tiệp Khắc cho Đức
ốc xã. Các thỏi vàng của Tiệp Khắc đã được gửi ngay
cho Hitler vào tháng 3/1939 khi quân Đức chiếm Praha.
Điều khó tin hơn nữa là chính phủ Anh thực sự đã
ngăn chặn và làm phá sản một âm mưu đảo chính của
một nhóm sĩ quan cao cấp của quân đội Đức nhằm vào
Adolf Hitler vào năm 1938, khi Hitler ra lệnh tấn công
Tiệp Khắc. Tác giả Anh Michael McMenamin cho biết:
“Về mặt lịch sử, không có nghi ngờ gì về việc phong trào
kháng chiến Đức đã liên tục cảnh báo người Anh về ý đồ
của Hitler muốn xâm lược Tiệp Khắc vào tháng 9/1938
Tuy nhiên, để đáp lại, chính phủ Anh khi đó đã thực hiện
mọi bước đi ngoại giao có thể để phá hoại phe đối lập
với Hitler.” [6]
áng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu
vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại
các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm
một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu
và Đông Âu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký
một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với
Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của
các chính phủ này[10], hiệp định tương trợ mà Liên Xô
muốn xây dựng với các nước Tây Âu đã không thể được
thực hiện.
Sau Hiệp ước Munich, những nước liên minh với Anh-
Pháp còn lại ở Tây Âu không còn tin vào lời hứa hẹn
trên giấy tờ của 2 nước này. Họ tìm cách thỏa hiệp với
Đức ốc xã. Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không
xâm lược lẫn nhau cũng được Đức ốc xã tiếp tục ký
với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva) và Đan Mạch,
những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Điều này
càng khiến Liên Xô trở nên lo ngại hơn.
Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và
ký với Đức hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau, đồng
thời bỏ mặc đồng minh Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt,
tất cả khiến Liên Xô thấy rằng phương Tây không hề
thực tâm trong việc ngăn chặn Hitler, mà thực ra họ
đang tìm cách hướng cỗ máy chiến tranh Đức nhắm
vào Liên Xô[11].
Vào ngày 22 tháng 5, Ý và Đức ký Hiệp ước ép, chính
thức hoá liên minh quân sự giữa hai nước. Về sau, hiệp
ước được mở rộng thêm Đế quốc Nhật Bản, làm thành
bộ ba Đức-Ý-Nhật, 3 cường quốc lớn nhất của phe Trục
trong thế chiến thứ 2.
Lập trường của các cường quốc phương Tây đưa Liên
Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải
một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít
Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước
không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân
đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không
thể tránh khỏi. Vào ngày 23 tháng 8, Đức và Liên Xô ký
Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không
xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia sẻ
vùng ảnh hưởng tại Đông Âu giữa hai nước này. oả
thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên, nếu
nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau
trong Nội chiến Tây Ban Nha vừa mới kết thúc. Tuy
nhiên với Liên Xô, hành động này không có gì khó hiểu
vì Anh-Pháp đã từ chối lập liên minh chống Đức, mà
họ thì không muốn một mình đối đầu với Đức tại thời
điểm đó.
Ngày nay, truyền thông phương Tây tập trung khai
thác Hiệp ước Xô-Đức để kết tội Liên Xô đã bắt tay
với Hitler, tạo nguyên nhân gây ra ế chiến thứ 2.
Nhưng thực tế lịch sử cho thấy hầu hết các cường quốc
4 2 DIỄN BIẾN
lớn của châu Âu đều đã ký các hiệp ước tương tự với
Đức ốc xã trước khi Liên Xô làm vậy. Giáo sư Carley
nhận xét rằng đây là nỗ lực tuyên truyền của phương
Tây nhằm biện minh cho các lỗi lầm nghiêm trọng vào
những năm 1930, khi họ không chặn đứng sự trỗi dậy
của nước Đức ốc xã và thiết lập một liên minh chống
Hitler vào thập niên 1930 theo đề nghị của Liên Xô[6].
1.2 Tình hình châu Á
Xe tăng Liên Xô dàn đội hình tấn công quân Nhật trong chiến
dịch Khalkhyn Gol
Tại châu Á, Nhật Bản đã có mặt tại Trung ốc khi
chiến tranh bắt đầu. Các khu vực bị Nhật chiếm đóng
trong quốc gia suy yếu này ngày càng nhiều trong
những năm cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-
Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi Nhật lấy cớ sự
kiện Lư Câu Kiều để đưa quân tấn công Trung ốc.
Với ưu thế vượt trội về không quân và hải quân cũng
như tinh thần kỷ luật cao của binh sĩ, Nhật Bản nhanh
chóng chiếm đóng hầu hết miền đông bắc Trung ốc.
Lúc này, hai phía ốc dân đảng và Cộng sản đảng
chấp nhận ngừng chiến để tập trung vào việc đánh đuổi
Nhật Bản ra khỏi Trung ốc. Cuộc chiến còn có sự
tham gia của Không quân Liên Xô để hỗ trợ cho quân
Trung ốc lúc này còn rất yếu về không quân so với
Nhật.
Lúc đầu, Trung ốc giành được một số thắng lợi,
nhưng sau này đà thắng quay sang phía Nhật và họ
đã chiếm luôn cả miền Đông Nam Trung ốc. Trong
cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường
bị tàn sát tàn nhẫn, trong đó có sự kiện ảm sát Nam
Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực đòi hỏi Nhật rời
khỏi Trung ốc, tuy nhiên Nhật Bản phớt lờ những
sức ép này. Hoa Kỳ, nước đang nắm giữ nhiều đảo ở
ái Bình Dương và Phillipine, đã bày tỏ sự lo ngại đối
với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện
pháp trừng phạt như không cho hàng hóa được tàu chở
đến Nhật, nhất là dầu mỏ.
Viên sĩ quan Nhật thuyết trình về chiến lược Tân Thái Bình
Dương cho binh sĩ.
Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và
công nghiệp tại Trung ốc trước khi Chiến tranh thế
giới thứ hai bắt đầu (sau sự kiện cầu Lư Câu 1937). Tuy
thế, Trung ốc không có hai tài nguyên quan trọng
trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó
là dầu mỏ và cao su. Có hai quan điểm trong các tướng
lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên này: một là
đánh vào phía bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm
lấy một phần lớn của Siberi và hai là đánh xuống phía
nam vào các thuộc địa của Âu Châu tại Đông Nam Á.
Sau Chiến tranh biên giới Xô-Nhật với việc Nhật Bản bị
Liên Xô đánh bại 2 lần liên tiếp, Nhật đã cho rằng cách
đánh vào phía bắc không thể giành được chiến thắng.
Sau thất bại trong trận Khalkhin Gol, Nhật Bản và Liên
Xô đã ký một hiệp ước trung lập vào ngày 13 tháng 4
năm 1939. Nhiều sử gia Liên Xô cho rằng việc thất bại
trong chiến dịch Khalkhin Gol đã khiến Nhật từ bỏ kế
hoạch xâm lược Liên Xô, dù sau này Đức ốc xã đã
đề nghị Nhật cùng hợp sức tấn công Liên Xô vào năm
1941[a][b][c].
Không thể tiến lên phía bắc, giờ đây tham vọng của
Nhật được hướng xuống phía nam, vào các thuộc địa
của Anh, Pháp, Hà Lan tại khu vực Đông Nam Á. Chiếm
được vùng này, Nhật Bản sẽ có được hai tài nguyên
quan trọng là dầu mỏ và cao su, cho phép họ đủ sức
tranh đoạt vị trí bá chủ ở ái Bình Dương với Anh và
Hoa Kỳ.
2 Diễn biến
2.1 Chiến trường châu Âu
2.1.1 Chiến trường châu Âu 1939-1940
2.1 Chiến trường châu Âu 5
Máy bay tiêm kích Bf 110 của Không quân Đức vượt biên giới
Ba Lan
Vào ngày 1 tháng 9, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước
Molotov-Ribbentrop được ký kết, Đức xâm lược Ba Lan,
khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm
tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan, tuy nhiên thực
tế 2 nước này đã không có hành động gì trợ giúp cho
Ba Lan (Anh, Pháp hy vọng sau khi Đức chiếm xong
Ba Lan thì sẽ ngừng lại hoặc quay sang tấn công Liên
Xô). Vào ngày 17 tháng 9, lực lượng Liên Xô tiến vào Ba
Lan từ miền đông khi biên giới đã bỏ trống do Ba Lan
chuyển quân sang phía tây chống Đức, với mục đích
bảo vệ kiều dân gốc Nga và thu hồi lại những vùng đất
đã bị Ba Lan chiếm của họ trong Chiến tranh Nga-Ba
Lan (1919-1921). Sự xâm nhập từ 2 nước mạnh khiến
chính phủ Ba Lan phải chạy khỏi đất nước, một phần
quân đội Ba Lan rút theo và tổ chức lại ở Pháp. Đến
ngày 6 tháng 10, lực lượng quân đội Ba Lan còn lại
hoàn toàn đầu hàng. Lãnh thổ Ba Lan do Đức kiểm soát
nằm dưới quản lý của 1 viên Toàn quyền Đức trong khi
các vùng phía đông (từng thuộc Nga nhưng bị Ba Lan
chiếm trong Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921)) được
hoàn trả cho Liên Xô (những vùng này ngày nay thuộc
về Ucraina và Belarus).
Sự sụp đổ nhanh chóng của Ba Lan có lý do khách quan
là sự vượt trội về công nghệ quân sự của Đức, còn lý
do chủ quan là vì họ quá tin vào lời hứa của Anh-Pháp
sẽ nhanh chóng tiếp viện cho Ba Lan, nhưng thực tế
viện trợ đã không đến. ực tế Ba Lan đã bị đồng minh
của họ bỏ rơi, vì khi Đức tấn công Ba Lan, quân Anh-
Pháp có tới 110 sư đoàn đang áp sát biên giới Đức so với
chỉ 23 sư đoàn của Đức, nếu Anh-Pháp tấn công thì sẽ
nhanh chóng buộc Đức phải rút quân về nước. Tư lệnh
kỵ binh Đức ốc xã Siegfried Westphal từng nói, nếu
quân Pháp tấn công trong tháng 9 năm 1939 vào chiến
tuyến Đức thì họ “chỉ có thể cầm cự được một hoặc hai
tuần”. Ri