Thư tịch của Trung Quốc như sách Man thư và Tân Đường
thư trong phần mô tả về người phương Nam Bách Việt ở
vùng Vân Nam xưa, có đoạn ghi về người Man như sau “Ô
Man Đông Thoán và bạch Man Tây Thoán” (ô là đen, bạch
và trắng), sự đen trắng này không phải ở da người mà ở trang
phục – có nghĩa ô Man Đông Thoán là người Man ở phía
Đông có trang phục màu đen, còn bạch Man Tây Thoán là
người Man ở phía Tây có trang phục màu trắng.
16 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa Nõ Nường : Lý giải Thái Trắng Thái Đen qua văn hóa của họ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hóa Nõ Nường :
Lý giải Thái Trắng Thái
Đen qua văn hóa của họ
Trích cuốn “Văn hóa Nõ Nường” – Dương Đình Minh Sơn
Thư tịch của Trung Quốc như sách Man thư và Tân Đường
thư trong phần mô tả về người phương Nam Bách Việt ở
vùng Vân Nam xưa, có đoạn ghi về người Man như sau “Ô
Man Đông Thoán và bạch Man Tây Thoán” (ô là đen, bạch
và trắng), sự đen trắng này không phải ở da người mà ở trang
phục – có nghĩa ô Man Đông Thoán là người Man ở phía
Đông có trang phục màu đen, còn bạch Man Tây Thoán là
người Man ở phía Tây có trang phục màu trắng.
Ở đây đều là người Man cả, nhưng người Man ở phía Đông
thì mặc trang phục màu đen, còn người Man ở phía Tây thì
mặc trang phục màu trắng. Tại sao như vậy? Đây là quan
niệm về phạm trù lưỡng hợp âm dương trong sinh học. Quan
niệm này chi phối nhận thức trong đời sống của người
phương Nam – Bách Việt, cơ sở cho sự hình thành các cặp
“đực cái” và hiện vật lưỡng hợp – âm dương.
Tư tưởng này ngày nay vẫn còn thấy tiềm tàng, đậm nét trong
tâm thức của các cư dân sinh sống ở đây, song có sự đậm
nhạt khác nhau qua các hình thái biểu hiện văn hóa của từng
dân tộc. Còn việc phân đôi dân tộc thành hai nghành thì nay
vẫn còn thấy trong trang phục của một số dân tộc như người
Mèo và đặc biệt là người Thái ở Tây Bắc. Vì thế, việc tìm
hiểu người Thái Trắng và người Thái Đen ở Tây Bắc là điều
cần thiết. Tuy nhiên việc nghiên cứu này là ở yếu tố văn hóa
học.
Dân tộc Thái ở Tây Bắc phân làm hai ngành Thái Trắng –
Thái Đen. Đây là một vấn đề đặt ra cho ngành Thái học của
cả khu vực Đông Nam Á – nơi có người Thái sinh sống.
Song cho đến nay, vấn đề đó vẫn chưa thấy giả thuyết nào có
sức thuyết phục.
Theo tác giả Cầm Trọng, ngành Thái Trắng và ngành Thái
Đen thuộc phạm vi cư trú rất rộng: ngành Thái Trắng sang cả
người Tày ở Việt Bắc, song nay họ đã là một cộng đồng
riêng, nhưng vẫn là bộ phận trong nhóm nói tiếng Thái thuộc
ngành “Trắng” (trao đổi riêng). Do đó ở đây chúng tôi chỉ đề
cập đến ngành Thái Trắng và ngành Thái đen cư trú ở Tây
Bắc nước ta.
Có ý cho rằng Thái Đen là nhóm người có nước da hơi đen
và ngược lại, nhưng qua trực quan, chúng tôi thấy không phải
thế, và lâu nay cũng không thấy khoa Nhân chủng học nói
đến điều đó. Vì thế, việc có hai ngành Thái Trắng và Thái
Đen ở đây không phải do vấn đề màu sắc sinh học, mà do
tâm lý xã hội tạo nên.
Chúng tôi đã thẩm thức vấn đề này ở vùng Thái Tây Bắc từ
năm 1958 và sau này, khi đang chuẩn bị tư liệu cho cuốn
sách Văn hóa Nõ Nường (sinh thực) qua những cổ vật:
tượng, phù điêu và hoa văn thổ cẩm biểu tượng “âm dương”
của người Kinh và người Thái thì thấy rằng việc có hai ngành
Thái Trắng, Thái Đen ở dân tộc Thái, đó là sự phân chia một
“nửa” của cha và một “nửa” của mẹ, về những người con
trong cùng một dân tộc.
Tư tưởng ấy được người Thái xưa ký thác lại trong ba biểu
tượng sau đây: Một là “quả trứng” tâm linh, tiếng Thái gọi là
“Xay mo”, cùng hai hoa văn thổ cẩm khác là “Xai Peng” (Tơ
Hồng) và “Kút Piêu” (ngọn lửa sự sống). Ba biểu tượng này
mô tả về chất “nguyên khí” của Po Me (Bố Mẹ) – chất đã
“sinh ra” con người – người Thái. Ba biểu tượng hoa văn đó
được thêu vào khăn Piêu để phụ nữ đội lên đầu cất giữ (xem
tiếp kỳ 7: Khăn Piêu của người Thái).
Ngay từ thuở ban sơ, các dân tộc nói chung và người Thái
nói riêng đã đặt câu hỏi về nòi giống, gốc nguồn của dân tộc
mình: con người ở đâu mà ra, và quá trình sinh ra đó như thế
nào? Trả lời – Qua trực quan họ thấy: Người Thái sinh ra từ
hai chất “nguyên khí” của Po Me: chất của Po màu “trắng”,
chất của Me màu “đỏ” của kinh nguyệt, khi có thai thì không
có kinh nữa. Vậy phần của cha (Po) ký hiệu màu “trắng”
Thái Trắng, trang phục màu trắng; phần của mẹ (Me) ký hiệu
màu “đỏ” Thái Đỏ, trang phục màu đỏ. Vậy ngành Thái Đỏ
có trước, về sau ngành Thái Đỏ chuyển thành ngành Thái
Đen.
Hình 1: Thái Trắng
Sự phân định màu sắc về Thái Trắng, Thái Đen ấy ngày nay
nhìn lại là phù hợp với người phương Đông, trong quan niệm
về ngũ sắc thì màu “đen” và các màu “sẫm” là thuộc tính
“Âm”, còn màu “trắng” và các màu “sáng” là thuộc tính
“Dương”.
Theo tập tính của loài người thì giới mày râu (Po) nghiêng về
sức vóc cường tráng, còn giới đàn bà (Me) thuộc phái yếu,
làm đẹp. Vậy nên nhóm phần của mẹ - Thái Đen, phụ nữ
được trưng diện thỏa sức với các gam màu sặc sỡ theo huyết
khí của mẹ là màu đỏ, mà chiếc khăn “Piêu” đội đầu của phụ
nữ Thái Đen là một điển hình.
Hình 2: Thái Đen
Những hoa văn trên khăn “Piêu” đội đầu của phụ nữ Thái
đen, với ý nghĩa chịu trách nhiệm mang tải những tư tưởng
ban đầu của người Thái về việc sinh thành, phát triển và bảo
vệ từng thành viên của dân tộc. Còn phụ nữ ngành Thái
Trắng tuy cũng là phái yếu, thuộc diện làm đẹp nhưng theo
ký hiệu của cha (Po) màu “trắng”, cho nên chỉ được trưng
diện ở các gam màu “trắng” và “sáng”, không có gam màu
sặc sỡ. Như vậy, việc Thái “Trắng” và Thái “đen” là thuộc
phạm trù tâm thức, quan niệm về sinh học giống nòi, còn sắc
phục chỉ phần thứ yếu bên ngoài. Dù vậy cả hai ngành Thái
đều cùng một cội nguồn (cha mẹ) cho nên mỗi ngành đều giữ
lại những kỷ vật màu sắc của ngành kia. Hiện tượng ấy người
Trung Quốc gọi là cất giữ ngọc bội. Đó là việc ngành Thái
Trắng vào những ngày cũng giỗ Tổ Tiên người ta lại ăn vận
đồ “đen” và phụ nữ hàng ngày mặc áo ngắn (xửa cóm) thì
nẹp viền cổ và lề áo cũng phải màu “đen” rồi trên đó mới
đơm hàng cúc bướm bạc, vì thé ngạn ngữ có câu “áo rách giữ
lấy lề” cho nên người ta lấy lề áo làm vật “ngọc bội” là có
dụng ý. Còn phụ nữ ngành Thái Đen thì trên lề áo đen cũng
đơm hàng cúc bướm bạc và đeo xà tích bằng bạc bên thắt
lưng trái.
Trong các dấu hiệu về trao đổi màu sắc (ngọc bội này) của
hai ngành Thái vừa nêu ở trên thì dấu hiệu mặc áo đen trong
dịp cúng lễ Tổ tiên của ngành Thái Trắng là có ý nghĩa hơn
cả, hoặc dùng “lề áo” màu đen vòng qua cổ, rồi thõng xuống
hai đường trước ngực cũng là một biểu hiện có ý nghĩa.
Ngoài ra việc ngành Thái Đen dùng màu “đen” và màu
“trắng” để làm bao bì đóng gói quà biếu giữa hai nhà thông
gia, cũng là tín hiệu có sức thuyết phục cao.
Ở ngành Thái Đen, con gái đi lấy chồng, sau thời gian gia
thất yên ổn, con cái đã lớn khôn, có tục về tạ ơn cha mẹ đẻ.
Lễ vật mang theo gồm: 5 sải vải trắng và 4 sải vải đen, cùng
6 đồng và 4 hào bạc trắng. Phân thành các lễ: dùng một sải
vải trắng gói 4 hào bạc biếu người làm mối, dùng 4 sải vải
trắng gói 2 đồng bạc biếu bố vợ, dùng 2 sải vải đen gói 2
đồng bạc biếu mẹ vợ và dùng 2 sải vải đen gói 2 đồng bạc trả
lại cho vợ chồng con đem về lại quả bên gia đình nhà chồng.
Nghi thức dùng màu sắc để đóng gói quà biếu ở đây là có
dụng ý (chỉ diễn ra ở hai gia đình thông gia – tức là tượng
trưng cho nên nửa của cha nhà “trai” và bên nửa của mẹ nhà
“gái”), gói vải màu “trắng” biếu cho “bố” vợ, gói vải màu
“đen” biếu cho “mẹ” vợ và gói quà của nhà “gái” lại quả thì
gói vào vải màu “đen”, còn gói quà của nhà “trai” biếu cho
người làm mối thì gói vào tấm vải màu “trắng”: ở đây màu
“trắng” thì bên nam (bố vợ, nhà trai), còn màu “đen” thì bên
nữ (mẹ vợ, nhà gái). Đó là những tín hiệu tự nó đã giải mã
cái tâm thức truyền kỳ về Thái Trắng “phần” của cha và Thái
Đen “phần” của mẹ ở người Thái cho hậu thế.
Từ hai chất “nguyên khí” của Po Me có màu “trắng” và màu
“đỏ” người xưa đã lấy quả trứng gà cũng có hai mầu “trắng”
– “đỏ” và nở thành gà con, làm vật biểu tượng so sánh, đối
chứng và được coi như quá trình thai nghén của một hài nhi
trong bụng mẹ - tức là “quả trứng tín ngưỡng” biểu tượng về
nguồn cội sinh thành ra người Thái. Cho nên quả trứng tâm
linh được họ tôn vinh thành “vật linh” thờ phụng mà việc
phân đôi hai ngành Thái Trắng và Thái Đen là điển hình cho
việc tôn vinh, thờ phụng đó. Vì vậy, giới thầy Mo trong nghề
bói toán đã lấy quả trứng “tâm linh” (âm, dương) này để làm
lễ vật môi giới, thỉnh cầu đến đấng siêu nhiên, thánh thần, tổ
tiên: thì điềm lành, điềm dữ ứng nghiệm tức thì ở vỏ quả
trứng, hoặc trứng đã ấp dở, còn non thì đập vỡ quả trứng ra
nhìn hai đường máu mà đoán định sự việc lành hay dữ, trong
nghề bói toán. Do đó, quả trứng tâm linh được người Thái
trân trọng tôn thờ cả trong tín ngưỡng và ngoài đời thường.
Ngoài đời thường, trong bữa ăn tươi khi có khách, theo tục,
trên mâm trước chỗ ngồi của chủ nhà đặt chiếc đĩa nhỏ đựng
hai quả trứng và hai cốc rượu hai bên. Đó là lễ vật tưởng nhớ
đến Tổ tiên, gọi là “xay – Po Me đẳm” (trứng ông bà); vào
bữa, chủ nhà khấn mấy lời, rồi chủ khách mới nâng cốc chúc
nhau.
Cũng cần nói thêm: có thể ban đầu chỉ có hai ngành: Thái
Trắng và Thái Đỏ, theo trực quan qua mầu sắc “nguyên khí”
của Po Me, về sau, khi xác lập mầu trắng là Dương và màu
đen là Âm thì nhóm Thái mầu Đỏ chuyển sang nhóm Thái
màu Đen. Do đó mà có ngành Thái Trắng và Thái Đen,
nhưng nhóm Thái Đỏ vẫn còn tồn tại, song mờ nhạt dần.
Như vậy, quả trứng “tâm linh” là thành quả của cả quá trình
tiên niệm trực quan, mà tư duy trực quan là thuộc về thời tiền
sử, mọi điều lớn lao đều được bắt đầu từ đó – từ cái phôi thai
của một sự sống của con người.
Ở người Văn Lang – Giao Chỉ, tâm thức phân đôi các con
trong cùng dân tộc được thể hiện trong văn hóa tâm linh qua
truyền thuyết Mẹ Âu Cơ đẻ bọc trứng nở trăm người con:
năm mươi người theo mẹ lên rừng, năm mươi người theo cha
xuống biển. Tư tưởng này được thể hiện trong các hình thái
sinh hoạt của đời sống văn hóa và phong tục tập quán, song ở
đây chỉ nói riêng phần màu sắc trang phục.
Trang phục của người Kinh bao giờ cũng thể hiện theo hai
phần và hai màu. Đó là bộ áo “kép” của người đàn ông: trong
áo trắng, ngoài áo xanh lam, còn bộ áo “tứ thân” của phụ nữ
thì “mớ ba” “bớ bảy” và hai màu, hoặc phụ nữ miền Trung
thì áo “vá vai” nửa trên màu trắng, nửa dưới màu nâu. Người
miền Trung ngày nay (như ở Quảng Trị), chúng tôi thấy khi
ra khỏi nhà đi chợ, đi làm, đều mặc hai áo cộc (kép) – hai áo
kiểu như nhau, chỉ khác là áo trong cài cúc, áo ngoài để hở.
Hồ Chủ Tịch có bức ảnh hai áo đại cán (chiếc mặc trong,
chiếc khoác ngoài) là từ tâm thức áo “kép” này của dân tộc.
Như vậy tư tưởng phân đôi “phần” của cha và “phần” của mẹ
- những người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành
ký hiệu trang phục “trắng” “đen” chỉ còn lại trong dân tộc
Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Còn tư tưởng này ở người Phương
Nam Bách Việt nay chỉ tiềm tàng, sâu sắc trong tư tưởng
phân đôi Âm Dương mà thôi, được thể hiện trong ý niệm và
các hình thái phong tục tập quán v.v
Ở đây, việc dùng trang phục hai mầu thì hầu như là tập tục
của nhân loại, phải chăng cũng được bắt nguồn từ tư tưởng
phân đôi phần của cha và phần của mẹ những người con
trong cùng dân tộc. Vì tư tưởng “âm dương” là của nhân loại
và cái mách bảo cho nhân loại biết về “âm dương” là chất
“nguyên khí” của sinh thực.
Tóm lại, tu tưởng nhân đôi “phần” của cha và “phần” của mẹ
- những người con trong cùng một dân tộc, thành hai ngành
ký hiệu trang phục “trắng” “đen”, “Âm” “Dương”. Đó là tư
tưởng chủ đạo của người phương Nam Bách Việt, trung tâm
là người Văn Lang Giao Chỉ. Tư tưởng này chi phối toàn bộ
phong tục tập quán sinh hoạt đời sống của xã hội: từ đồ dùng
vật dụng, chúng đều mang tính “đực” “cái”, như ở người
Kinh, ngay đôi phách gõ nhịp của ả đào trong Hát thờ cũng
có ý phiếm chỉ cái “âm” cái “dương” và âm nhạc thì tiếng
trong, tiếng đục, hoặc chiếc trống cũng trống đực, trống cái
v.vnghĩa là, tư tưởng Âm Dương chủ đạo trong ý niệm và
các hình thái hoạt động xã hội của người phương Nam Bách
Việt.