Tóm tắt
Tìm hiểu văn hóa sinh kế nói riêng và văn hóa biển đảo nói chung của các thế hệ cư dân/ngư dân tại
các đảo, quần đảo của Việt Nam đã và đang được đặt ra như những nhiệm vụ mang tính cấp thiết đối
với khoa học chuyên ngành và khoa học liên ngành (thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội và khoa học công nghệ) ở Việt Nam những năm gần đây. Thông qua nghiên cứu định lượng và
định tính từ 300 phiếu điều tra xã hội học và một số phỏng vấn chuyên sâu đối với người dân, đại diện
chính quyền và đội ngũ quản lý văn hóa tại địa bàn hai xã An Hải và An Vĩnh của huyện đảo Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi, vào các năm 2015 và 2016, tác giả đã khảo sát và nhận diện một số khía cạnh nhất định
hiện trạng của diễn biến sinh kế và quá trình thích ứng với biển để kế thừa, bồi đắp cho văn hóa sinh
kế biển của cộng đồng người dân huyện đảo Lý Sơn. Từ đó, đề xuất một số cơ chế, giải pháp ứng dụng,
phục vụ việc giải quyết các nhiệm vụ đã và đang đặt ra trong sự nghiệp xây dựng đời sống kinh tế - văn
hóa - xã hội tại huyện đảo Lý Sơn hiện nay.
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa sinh kế huyện đảo Lý Sơn những năm gần đây - Hiện trạng những vấn đề liên quan và xu hướng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
VĂN HÓA SINH KẾ HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY - HIỆN TRẠNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN VÀ XU HƯỚNG
BÙI VŨ DUY QUANG
BÙI QUANG THANH
Tóm tắt
Tìm hiểu văn hóa sinh kế nói riêng và văn hóa biển đảo nói chung của các thế hệ cư dân/ngư dân tại
các đảo, quần đảo của Việt Nam đã và đang được đặt ra như những nhiệm vụ mang tính cấp thiết đối
với khoa học chuyên ngành và khoa học liên ngành (thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học
xã hội và khoa học công nghệ) ở Việt Nam những năm gần đây. Thông qua nghiên cứu định lượng và
định tính từ 300 phiếu điều tra xã hội học và một số phỏng vấn chuyên sâu đối với người dân, đại diện
chính quyền và đội ngũ quản lý văn hóa tại địa bàn hai xã An Hải và An Vĩnh của huyện đảo Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi, vào các năm 2015 và 2016, tác giả đã khảo sát và nhận diện một số khía cạnh nhất định
hiện trạng của diễn biến sinh kế và quá trình thích ứng với biển để kế thừa, bồi đắp cho văn hóa sinh
kế biển của cộng đồng người dân huyện đảo Lý Sơn. Từ đó, đề xuất một số cơ chế, giải pháp ứng dụng,
phục vụ việc giải quyết các nhiệm vụ đã và đang đặt ra trong sự nghiệp xây dựng đời sống kinh tế - văn
hóa - xã hội tại huyện đảo Lý Sơn hiện nay.
Từ khóa: Sinh kế, Lý Sơn, văn hóa biển đảo
Abstract
Understanding the culture of livelihood in particular and the marine culture of generations of
inhabitants/fishermen in the islands and archipelago of Vietnam in general has been posed as an
urgent task for specialized in interdisciplinary science (in the fields of natural sciences, social sciences
and technology science) in Vietnam in recent years. Through quantitative and qualitative research
based on 300 sociological survey questionnaires and in-depth interviews with local people, government
representatives and cultural managers in An Hai and An Vinh communes, island district of Ly Son,
Quang Nam province in 2015 and 2016, the author has surveyed and identified some certain aspects
of status quo of livelihood and the marine adaptability process to inherit, consolidate the livelihood
culture of the Ly Son community. From that, the author propose some (new) mechanism, policies,
application to solve the tasks that have been orienting for the cause of promoting economic - culture
- society life in Ly Son nowaday.
Keywords: Livelihood, Ly Son, Marine culture
1. Vị trí địa lý - lịch sử đặc thù
Đảo Lý Sơn nằm về phía đông bắc tỉnh
Quảng Ngãi, có vị trí địa lý từ 15032’04”
đến15038’14” vĩ độ Bắc và từ 109005’04” đến
109014’12” kinh độ Đông, cách đất liền khoảng
15 hải lý (khoảng 28 km), cách quần đảo
Trường Sa 445 hải lý về phía đông nam, cách
quần đảo Hoàng Sa 130 hải lý về phía đông
bắc; cách đường hàng hải quốc tế 35 hải lý về
phía đông và được xem như một “hạm đội” nổi
trên biển đông. Vì vậy, huyện đảo Lý Sơn giữ
một vị trí chiến lược quan trọng trên vùng biển
Đông, giữ vai trò đặc biệt trong việc góp phần
phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền an ninh
biển đảo, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ đất liền
và trên biển của Việt Nam (1, tr.237)
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
Số 24 - Tháng 6 - 201866
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Lý Sơn thực ra là tên gọi hành chính cho cả
cụm đảo bao gồm các đảo lớn nhỏ khác nhau,
trong đó, Hòn Lớn (nơi cư trú của cư dân, ngư
dân toàn huyện đảo) là đảo được hình thành
do tàn tích của hoạt động phun trào của núi
lửa cách ngày nay từ khoảng 250 đến 300 triệu
năm, do vậy địa hình núi lửa chiếm 70% diện
tích toàn huyện. Hai ngọn núi Thới Lới và Giếng
Tiền là hai họng núi lửa khổng lồ và tuyệt đẹp,
cao vút giữa biển khơi tạo thành điểm nhấn
cảnh quan vô cùng ngoạn mục cho đảo. Có
thể nói, cả đảo Lý Sơn là một di sản về núi lửa
và thiên nhiên tuyệt vời có một không hai trên
đất nước ta. Những hang động tuyệt đẹp được
thành tạo do sản phẩm dung nham núi lửa này
thuộc dạng hiếm trên thế giới, rất có giá trị để
phát triển du lịch, như Hang Câu, Chùa Hang,
Cổng Tò Vò,...
Lịch sử đảo Lý Sơn gắn liền với quá trình
bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên đảo
Hoàng Sa (2). Cho đến nay, những dấu tích còn
lại trên đất Lý Sơn, hiện diện qua các di tích
lịch sử văn hóa cùng với nguồn di sản văn hóa
phi vật thể đã góp phần quan trọng cho việc
nhận diện bức tranh lịch sử của gần 400 năm
định cư, sáng tạo của các thế hệ cư dân, kể từ
khi người Việt ra khai phá và định cư ở vùng
đất này, nhằm đạt được mục đích “thích ứng
với biển” để sinh tồn và phát triển. Đồng thời,
cũng qua quá trình hàng trăm năm đương đầu
với biển cả, ứng xử với mọi thách thức của điều
kiện tự nhiên, khí hậu nơi đây, người dân Lý Sơn
đã tự xây đắp cho mình một hệ văn hóa sinh kế
phù hợp, đủ sức để sinh tồn, phát triển, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ “bảo vệ tiền đồn” cho
chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Đặc trưng độc
lập - khép kín trong không gian được bao bọc
bởi biển khơi của khu vực cư trú - sinh tồn, nơi
gần hai vạn dân Lý Sơn hiện đang làm ăn, sinh
sống, đã là điều kiện tạo ra bản sắc cho văn
hóa sinh kế của ngư dân - cư dân nơi đây, trên
bước đường vận động của lịch sử.
2. Tác động của điều kiện tự nhiên - sinh
thái, nhân văn
2.1. Tác động của tự nhiên - khí hậu
Khảo sát những tác động của điều kiện tự
nhiên - sinh thái đối với đời sống sinh tồn của
người dân Lý Sơn trong khoảng 5 năm trở lại
đây từ hướng tiếp cận xã hội học, có thể định
lượng được một số diện mạo cơ bản cùng
những hiện trạng do chính người dân Lý Sơn
nhận biết và đánh giá.
Trước hết, có thể thấy rằng, Lý Sơn là vùng
đất nằm trong khu vực sinh thái có khí hậu
nhiệt đới gió mùa trên vùng biển có chế độ
nắng thuộc loại dồi dào nhất trong hệ thống
các đảo - quần đảo ven bờ của Việt Nam. Các
hiện tượng thời tiết đặc biệt ở Lý Sơn chủ yếu
là dông và bão, tập trung vào các tháng hè1.
Theo cảm nhận của các bậc cao niên, những
chục năm trước đây, điều kiện sinh thái - tự
nhiên của vùng biển Lý Sơn nói chung là thuận
lợi cho sức khỏe con người trong các hoạt
động nghỉ dưỡng, tắm biển cũng như thuận
lợi cho một số cây đặc sản của vùng đất này
(hành, tỏi) và một số loại cây ăn quả như đu đủ,
chuối, na, dưa hấu,... Tuy nhiên, trong khoảng
trên dưới chục năm trở lại đây, trong xu thế
biến đổi khí hậu chung toàn cầu, những bất
thường về thời tiết gây ảnh hưởng rất lớn đến
tự nhiên, quá trình phát triển kinh tế xã hội
của địa phương. Nếu như trước đây, hàng năm
vào các tháng 9 đến 11, Lý Sơn chỉ gặp khoảng
một cơn bão và một tháng mưa dông, nhưng
trong những năm qua, tình hình thời tiết diễn
biến rất phức tạp thường xuyên xảy ra giông,
sét, khô hạn, lũ lụt, bão, gây thiệt hại nghiêm
trọng về người và tài sản cho cư dân/ngư dân
trên đảo. Kết quả khảo sát về tình hình thiên
tai hay thời tiết bất thường địa phương thường
gặp trong 5 năm gần đây như sau: nhiều người
phản ánh hiện tượng đất nhiễm mặn chiếm tỷ
lệ cao (71,7%); thứ hai, khô hạn (69,0%); lũ lụt,
bão (63,7%); nhiệt độ cao (40,7%) và một số
hiện tượng thời tiết bất thường khác thể hiện
ở biểu đồ 1.
67Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Dưới tác động của những bất thường về
thời tiết, sự gia tăng của các hiện tượng khí
hậu cực đoan sẽ là tác nhân khách quan, dẫn
đến làm cho môi trường sống của con người
bị thay đổi là quy luật tất yếu không thể tránh
khỏi. Những bất thường về thời tiết trong
khoảng 5 năm gần đây ảnh hưởng rất lớn đến
sức khỏe người dân, đặc biệt là người già, trẻ
em và phụ nữ. Nhiệt độ tăng đã trở thành yếu
tố chủ chốt gây ra biến đổi khí hậu, tác động
tiêu cực đối với sức khoẻ con người, dẫn đến
gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người
mắc bệnh tim mạch, bệnh thần kinh. Một số
bệnh thường gặp ở người và động vật, như
sốt suất huyết, bệnh tả, cúm gia cầm có diễn
biến phức tạp và bất thường hơn (như bệnh
sốt xuất huyết), mức độ lây lan rộng hơn và
gây ra những thiệt hại đáng kể. Nhiệt độ tăng
cao, hạn hán kéo dài sẽ làm mực nước ngầm
tầng nông bị tụt giảm, giảm trữ lượng nguồn
nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt của
con người. Nguồn nước bị nhiễm bẩn, bị
nhiễm mặn đã khiến người dân bị thiếu nước
ngọt sử dụng, do đó việc thiếu nguồn nước
sạch sử dụng sẽ làm suy giảm chất lượng cuộc
sống người dân và nguy cơ mắc bệnh cao.
Những bất thường về thời tiết tác động đến
tài sản, sinh kế của người dân tại địa phương
bao gồm nhà cửa, nguồn nước, sức khỏe cộng
đồng, hạ tầng kỹ thuật. Những tác động này
có thể làm suy giảm khả năng của con người
trong việc đảm bảo cuộc sống, vượt qua đói
nghèo. Theo đánh giá của người dân, những
bất thường về thời tiết dẫn đến một số hậu
quả lớn như sau: người dân bị mất mùa hoặt
thất bát về trồng trọt trên đảo hoặc đánh bắt
cá xa bờ (65,3%); năng suất giảm (54,3%); thiếu
nước uống (42,7%); hư hại nhà cửa (42,0%).
Ngoài ra, người dân bị thiệt hại về vốn, bệnh
tật ở người, gia súc, công việc bị gián đoạn...
(Biểu đồ 2). Đặc biệt, từ cuối 2014 trở lại đây,
khi Lý Sơn xây dựng được mạng lưới điện kéo
ra từ lục địa, hàng loạt các gia đình trồng trọt,
chăn nuôi trên đảo cũng như các dịch vụ kinh
tế khác, đã trang bị hệ thống bơm - hút nước
ngọt hiện đại phục vụ tưới cây, vệ sinh chuồng
trại, sử dụng trong sinh hoạt, du lịch cộng
đồng, đã dẫn đến tình trạng đáng báo động
về trữ lượng nước ngọt của toàn đảo.
Do sống trong môi trường những bất
thường về thời tiết có nguy cơ xảy ra cao, nên
người dân địa phương luôn có những phương
án, vật dụng để đối phó với thiên tai như:
Biểu đồ 1. Những thiên tai hay thời tiết bất thường địa phương gặp trong 5 năm gần đây (%)
Số 24 - Tháng 6 - 201868
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Trang bị điện thoại để kịp thời trao đổi thông
tin (58,7%); Có ý thức tích trữ lương thực, thực
phẩm (53,0%); Trang bị áo phao (54,3%); Trang
bị vật dụng để trữ nước ngọt (47,7%) và các vật
dụng khác (Biểu đồ 3).
Về những khó khăn, cản trở gặp phải trong
việc đánh bắt cá ở địa phương những năm gần
đây, kết quả khảo sát cho thấy người dân đánh
bắt cá trên đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi đã gặp
phải khá nhiều khó khăn, như do thời tiết thay
đổi (biến đổi khí hậu) (66,0%); Thứ hai, do tàu
thuyền của người nước ngoài cản phá, tranh
cướp địa bàn làm ăn (44,7%); Thứ ba, do địa
bàn đánh bắt cá quá xa nơi đảo cư trú (41,0%).
Mặc dù trong những năm gần đây, Nhà nước
đã có chính sách hỗ trợ ngư dân đánh bắt cá
xa bờ về mặt kinh phí và kỹ thuật đóng tàu
thuyền có công xuất lớn, đủ sức chống chọi
với thời tiết, khí hậu quanh vùng quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng do sự vướng mắc
về thủ tục hành chính và sự áp chế về kỹ thuật
đóng tàu thuyền giữa nhà nước với ngư dân,
cho nên, việc triển khai trong thực tế vẫn còn
chậm và chưa hiệu quả. Theo ông Võ Văn Út,
một trong những ngư dân vốn đã từng có
nhiều năm trực tiếp đánh bắt xa bờ, cho biết:
Việc đóng tàu thuyền để phục vụ đánh bắt xa
bờ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đó không
đơn thuần chỉ là kỹ thuật. Với người dân, mỗi
khi tổ chức đóng tàu thuyền đủ sức phục
vụ đánh bắt hàng tháng trời giữa biển khơi,
bên cạnh việc mua bán nguyên vật liệu phù
hợp để đóng theo kỹ thuật nhất định, còn là
vấn đề tâm linh với người đi biển. Những tín
ngưỡng này, chỉ người dân trực tiếp gắn vận
mệnh mình với biển đảo mới biết được, có
trải nghiệm trực tiếp người dân mới tin được.
Những kỹ sư, công nhân đóng tàu thuyền
hiện đại chỉ thuần thục về kỹ thuật mà chưa
gắn với tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng,
đấy là chưa kể việc tráo đổi nguyên vật liệu
kém chất lượng, không đủ sức chịu đựng được
sự ăn mòn của nước biển... vì thế, có chuyện
người dân không muốn mua tàu thuyền hoặc
sử dụng tàu thuyền của nhà nước hỗ trợ/tài trợ
để đi đánh bắt xa bờ, dù họ vẫn khát khao có
được sự trang bị hiện đại đó (Biểu đồ 4).
Như vậy, vấn đề tác động và gây ảnh hưởng
của điều kiện tự nhiên, khí hậu do biến đổi
những năm gần đây đã gây ảnh hưởng lớn
Biểu đồ 2. Hậu quả từ sự bất thường của thời tiết những năm gần đây
69Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhất đến hoạt động sinh kế của người dân Lý
Sơn. Thực tế này đã và đang đòi hỏi cộng đồng
ngư dân Lý Sơn có những chuyển biến trong
nhận thức để vượt qua lối hoạt động sinh kế
như truyền thống, để nhanh nhạy ứng xử với
sự biến đổi khí hậu biển, có những sáng tạo
phù hợp để ổn định và phát triển hoạt động
đánh bắt cá nói riêng và đời sống kinh tế - văn
hóa nói chung.
2.2. Ảnh hưởng của việc phát triển du lịch
đến môi trường sống ở địa phương
Những năm gần đây, Lý Sơn là một trong
những địa phương biển đảo có tốc độ phát
triển du lịch khá nhanh. Thực trạng phát triển
khá rõ là tốc độ phát triển của cơ sở hạ tầng và
các hệ thống dịch vụ. Từ 2010 trở về trước, Lý
Sơn hầu như không có nhà nghỉ và khách sạn
phục vụ du khách đến đảo. Năm 2014, huyện
Biểu đồ 3. Phương án đối phó với sự bất thường của thời tiết
Biểu đồ 4. Những khó khăn, cản trở gặp phải trong việc đánh bắt cá ở địa phương
những năm gần đây (%)
Số 24 - Tháng 6 - 201870
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đảo Lý Sơn đã xây dựng được 1 khách sạn và
11 nhà nghỉ với 95 phòng. Đến cuối năm 2015
và đầu năm 2016 (thời gian nhóm nghiên cứu
điền dã có mặt), Lý Sơn đã có 4 khách sạn, 31
nhà nghỉ với tổng số 440 phòng. Ngoài ra,
còn có hàng chục nhà dân đã và đang tăng
số lượng nhà nghỉ trong phạm vi cư trú của
gia đình mình, với mục đích phát triển du lịch
cộng đồng, du lịch trải nghiệm (homestay) tại
các thôn xóm trung tâm của huyện đảo. Đến
nửa cuối năm 2017, theo báo cáo của lãnh đạo
huyện Lý Sơn, sự phát triển du lịch tại huyện
đảo gần như đã và đang có bước ‘nhảy vọt”.
Ông Nguyễn Viết Vy, Bí thư huyện ủy đảo Lý
Sơn cho biết, năm 2016, tổng giá trị các ngành
kinh tế của huyện đạt 1.355 tỷ đồng, tăng gấp
đôi năm 2013. Riêng 8 tháng đầu năm 2017,
tổng sản phẩm ước đạt 1.043 tỷ đồng, tăng
10,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lĩnh
vực thương mại dịch vụ du lịch nhiều năm liền
tăng trưởng trên 30%, riêng 7 tháng đầu năm
2017 tăng trưởng 40%. Cơ cấu thương mại dịch
vụ tăng từ 21,49% năm 2010 lên 26,11% năm
2016. Chỉ vào biểu đồ tăng trưởng du khách
đến Lý Sơn, ông Nguyễn Viết Vy mô tả: Từ năm
2010 đến 2013, biểu đồ này gần như đi ngang.
Nhưng từ năm 2013 đến nay, sau sự kiện giàn
khoan Hải Dương 981 và Lý Sơn hòa điện lưới
Biểu đồ 5. Mức độ ảnh hưởng của việc phát triển du lịch đến môi trường sống ở địa phương
Biểu đồ 6. Ngành, nghề đang phát triển ở địa phương (%)
71Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
quốc gia thì hiện trạng du lịch ở Lý Sơn đã tăng
trưởng đột biến, gần như theo hình thẳng
đứng. Cụ thể, năm 2016, Lý Sơn đón 165.000
du khách, tăng 37,5 lần so với năm 2010 và 20
lần so với năm 2013. Trong 8 tháng đầu năm
2017, đảo này tiếp tục đón 210.000 lượt du
khách. Phân tích về sự tăng trưởng này, Bí thư
Nguyễn Viết Vy nhận định: “Trước tiên, sau sự
kiện giàn khoan Hải Dương 981, người dân cả
nước đã dành cho Lý Sơn tình cảm đặc biệt”.
Lý Sơn được biết đến là “vương quốc tỏi”, với
những cánh đồng hành và tỏi xanh mướt.
Nhưng Lý Sơn không chỉ có hành và tỏi. Lý Sơn
được hình thành từ núi lửa phun trào, có nhiều
di sản thiên nhiên độc đáo và các di sản văn
hóa gắn liền với quá trình bảo vệ đất nước của
cha ông. Cho đến nay (8 - 2017), huyện Lý Sơn
hiện có 109 cơ sở kinh doanh lưu trú, trong đó
có 6 khách sạn, 47 nhà nghỉ, 56 nhà phục vụ
du lịch cộng đồng (homestay) và hơn 40 cơ sở
kinh doanh ăn uống. Mỗi ngày, Lý Sơn đón tới
3.000 lượt du khách. Trong hai năm trở lại đây,
đảo Lý Sơn bị “bê tông hóa” khi các khách sạn,
nhà nghỉ và công trình cao tầng cấp tập mọc
lên. Điều này khiến nhiều ý kiến lo ngại Lý Sơn
dần mất đi vẻ nguyên sơ vốn là điểm quyến
rũ du khách, đồng thời xâm phạm đến cảnh
quan, môi trường, và các di sản thiên nhiên2.
Song hành với đó là sự phát triển ồ ạt các hệ
thống dịch vụ hàng quán, sự mở rộng, nâng cấp
hệ thống đường giao thông theo phương thức
bê tông hóa. Với tốc độ phát triển như hiện tại,
du lịch tại Lý Sơn bên cạnh việc nâng cao đời
sống kinh tế, văn hóa của cư dân địa phương,
còn là những tác động đa chiều đến cảnh
quan môi trường và sự chuyển hướng nghề
nghiệp của một bộ phận dân cư trên đảo. TS.
Nguyễn Đăng Vũ, Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh
Quảng Ngãi khi đó đã nhận xét: Cho đến thời
điểm hiện tại, sự phát triển du lịch tại huyện
đảo Lý Sơn đã và đang có những ảnh hưởng
đáng báo động. Theo ông, chẳng hạn, tại các
điểm di tích như Chùa Hang, Hang Câu, núi
Giếng Tiên, cổng Tò Vò, hiện trạng các nhà
hàng, lều quán mọc lên tự phát quá nhiều,
xâm phạm và làm ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái xung quanh. Đặc biệt, việc xây dựng
đường cơ động xung quanh đảo cùng vành
đai rào chắn ven đường đã làm ngăn cách và
che khuất nhiều bãi biển đẹp, từ Bãi Kiều, Hang
Cò đến hòn Mù Cu, Hang Câu, (Biểu đồ 5).
Biểu đồ 7. Nghề sinh sống của gia đình (%)
Số 24 - Tháng 6 - 201872
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Theo đánh giá của một bộ phận người dân,
việc phát triển du lịch ở địa phương có ảnh
hưởng ít đến môi trường sống chiếm (49,3%);
không ảnh hưởng là (16,7%). Bên cạnh đó, có
(34,0%) trong số những người được hỏi đánh
giá việc phát triển du lịch ở địa phương có ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống ở
địa phương.
3. Văn hóa sinh kế của cộng đồng
3.1. Diễn biến của hoạt động sinh kế thông
qua phát triển ngành nghề
Cho đến nay, các ngành nghề của cư dân
trên đảo Lý Sơn đã có sự phát triển, mở rộng
và kết hợp giữa ngành nghề truyền thống
với những nghề mới phát sinh. Trong truyền
thống, nghề đánh bắt cá có vị trí lớn nhất, sâu
rộng nhất trong sinh kế tồn tại của người dân.
Nếu như tại Cù Lao Chàm, cư dân chủ yếu đánh
bắt cá gần bờ, thì ở Lý Sơn, việc đánh bắt cá xa
bờ chiếm số lượng chủ yếu so với đánh bắt cá
gần bờ. Việc đánh bắt cá xa bờ không chỉ đáp
ứng nhu cầu phát triển kinh tế của người dân,
mà còn có bộ phận đánh bắt xa bờ để thực
hiện luôn nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền khu vực
làm ăn của mình, chủ quyền biển đảo các đảo
và quần đảo xa bờ như Hoàng Sa, Trường Sa,
do chính quyền nhà nước phong kiến giao
phó (2).
Biểu đồ 6 cho thấy ngành nghề đang phát
triển ở địa phương hiện nay chủ yếu là nghề
đánh, bắt thủy hải sản chiếm tới (79,0%); thứ
hai, nghề nuôi trồng chế biến thủy hải sản
(54,0%); thứ ba, nghề dịch vụ du lịch biển đảo
(38,3%). Ngoài ra, còn các ngành nghề khác
nhưng chiếm tỷ lệ thấp hơn 3 nhóm ngành
nghề trên. Sự giảm thiểu một số nghề, như
trồng trọt chẳng hạn, có lý do bới điều kiện
khách quan của thời tiết, khí hậu, nguồn nước
dân khan hiếm. Tuy nhiên, bên cạnh nghề
truyền thống trồng tỏi, hành, cư dân Lý Sơn đã
và đang mở rộng việc trồng cây ăn quả để đáp
ứng nhu cầu sở tại và phục vụ khách du lịch.
Với người dân Lý Sơn, từ 1975 trở về trước,
hầu hết các gia đình đều gắn chủ yếu với nghề
đánh bắt thủy hải sản và nghề trồng hành, tỏi.
Kết quả phỏng vấn người dân ở địa phương về
ngành nghề sinh sống của gia đình cho thấy,
cho đến nay (2015), nhiều gia đình vẫn chủ
yếu sinh sống bằng nghề đánh bắt thủy, hải
sản, chiếm 48,7%; đặc biệt, tại đảo Lý Sơn nổi
tiếng có nghề trồng hành, tỏi, do đó tỷ lệ gia
đình làm nghề trồng hành, tỏi là 34,7%. Bên
cạnh đó, một số hộ gia đình làm nghề nuôi
trồng, chế biến thủy, hải sản, và đặc biệt vào
Biểu đồ 8. Thị trường bán sản phẩm sản xuất của gia đình (%)
73Số 24 - Tháng 6 - 2018
VĂN HÓA ĐƯƠNG ĐẠI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
những năm gần đây đã mở rộng thêm nghề
dịch vụ du lịch biển đảo Không ít gia đình đã
chuyển đổi nghề, bỏ đánh bắt hải sản để đến
với hoạt động dịch vụ du lịch, đầu tư phòng
nghỉ và các tiện nghi phục vụ du lịch cộng
đồng (homestay) (Biểu đồ 7).
Những năm gần đây, Lý Sơn đã và đang
phát triển mạnh nghề dịch vụ du lịch, đẩy
mạnh và gia tăng số các gia đì