Văn hoá tâm linh và nghệ thuật trong tranh Làng Sình xứ Huế

Nhắc đến tranh dân gian Việt Nam người ta nghĩ ngay đến tranh Đông Hồ hay tranh Hàng Trống. Được mấy ai biết đến ở Huế cũng có dòng tranh dân gian mang đậm nét dân gian, thuần tuý hơn, mang màu sắc tâm linh không thể thiếu trong đời sống của người dân xứ Huế. Đó chính là tranh Làng Sình

pdf12 trang | Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1839 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hoá tâm linh và nghệ thuật trong tranh Làng Sình xứ Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn hoá tâm linh và nghệ thuật trong tranh Làng Sình xứ Huế. Nhắc đến tranh dân gian Việt Nam người ta nghĩ ngay đến tranh Đông Hồ hay tranh Hàng Trống. Được mấy ai biết đến ở Huế cũng có dòng tranh dân gian mang đậm nét dân gian, thuần tuý hơn, mang màu sắc tâm linh không thể thiếu trong đời sống của người dân xứ Huế. Đó chính là tranh Làng Sình. Tranh làng Sình khác với tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà Nộii) bởi chức năng duy nhất là phục vụ thờ cúng, cúng xong là đốt, là một dòng tranh dân giann Việt Nam. Đây là dòng tranh mộc bản. Vì vậy, đến nay chỉ còn những bản khắc gỗ là hiện vật quý giá còn lưu giữ được ở nhà ông Kỳ Hữu Phước – một nghệ nhân làm tranh lâu năm ở làng Sình. Làng Sình hay còn gọi là làng Lại Ân thuộc xã Phú Mậu – huyện Phú Vang, cách thành phố Huế khoảng 9km về phía Đông. Làng còn có nghề làm hương, làm hạt bỏng để cúng. Có lẽ vậy mà nghề in tranh mộc bản ở Làng Sình, ngay từ khi ra đời đã không thuần túy là dòng tranh phục vụ cho các thú chơi tao nhã, mà chủ yếu là nhu cầu tín ngưỡng, dùng để thờ cúng trong các lễ cầu an, giải hạn. Thậm chí chúng còn xuất hiện trong cung cấm. Xuất hiện, tồn tại, thăng trầm trong mấy trăm năm, tranh làng Sình đã cộng nhập những dấu ấn lịch sử và những giá trị văn hoá nhân văn của cộng đồng làng xã. Khác với dòng tranh Đông Hồ có chủ đề về đời sống, tinh thần cư dân vùng châu thổ Bắc Bộ với cách biểu đạt trào lộng, dí dỏm, tranh Sình dường như chỉ mang ý nghĩa thờ, cúng. Về đề tài tranh Sình chia làm ba thể loại chính: tranh nhân vật, tranh súc vật và tranh đồ vật. - Tranh nhân vật thường là tranh thế mạng hoặc các tranh trang ông, trang bà, trang bếp (tranh bổn mạng) là những vị thần bổn mạng bảo trợ cho gia chủ. Loại này thường dán trên tường cuối năm mới đốt, còn tất cả tranh khác đều đốt hóa cùng với vàng bạc hàng mã khi cúng xong. - Tranh súc vật là những bức in hình 12 con giáp cúng cho tuổi của mỗi gia chủ hoặc tranh các loài gia súc trâu, bò, heo, ngựa treo trong các chuồng trại nuôi gia súc để cầu cho vật nuôi tránh được dịch bệnh, hay mong cho nghề nghiệp được hưng vượng, tranh các linh thú như voi, cọp thì dùng dâng cúng nơi các miếu cầu mong cho chúng không giáng họa cho người. - Tranh đồ vật là tranh in hình các loại áo quần, khí dụng như cung tên hoặc các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí. Cũng giống như đa phần các dòng tranh dân gian xưa, như Đông Hồ, Hàng trống, tranh Sình với lối in tranh mộc bản. Bao gồm các công đoạn khá cầu kỳ: khắc bản gỗ, in tranh trên giấy điệp, rồi tô màu. Giấy in tranh là giấy mộc. Nguyên liệu để quét hồ điệp cũng phải đi khai thác ở các vùng đầm phá nước lợ ở ven biển như đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, trải dọc theo bờ biển Thừa Thiên Huế, sau đó đem về giã, rồi hồ quét. Màu in thì đa phần dùng những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên, sau đó quá một quá trình xử lý rất nghiêm ngặt để làm sao khi màu được tô lên tranh không bị phai. Việc lấy những nguyên liệu màu sắc này cũng có nét giống với tranh Đông Hồ, nhưng cũng bao hàm cả những sản vật địa phương, hoặc kinh nghiệm dân gian để có được những sắc thái khác nhau. Nếu những sắc của tranh Đông Hồ thường chỉ có vài màu cơ bản, bằng cách chồng màu của các loại ván in khác nhau khiến cho màu của tranh khá phong phú. Thì tranh làng Sình, lại giống với tranh Hàng Trống là chỉ in một bản khắc nét đen, sau đó màu được tô vào các chi tiết. Cách tô màu này thường là tô mảng phẳng, và tô một lần, chứ ít khi được tô chồng màu. Nó cũng không tô theo kiểu lấy đậm nhạt bằng việc hòa thêm nước cho các màu để tạo bóng nổi như ở tranh Hàng Trống. Chính đặc điểm này, khiến cho màu của tranh làng Sình, phải pha chế nhiều sắc hơn. Như màu vàng, nếu tranh Đông Hồ chỉ có vàng hoa hòe, thì tranh Sình còn có thêm vàng từ là cây Đung. Hai thứ màu này trộn lẫn với nhau tạo được một sắc vàng đằm hơn và cũng bền hơn. Màu đỏ thì làm từ vỏ cây dương liễu và lá bàng, hoặc gỗ cây trâm chẻ nhỏ, nấu với nước cho đến khi cô lại đặc sánh. Màu lục là hỗn hợp của hai loại nước được sắc từ lá bông ngọt và lá mối. Màu tím được chế từ hạt mồng tơi giã nhỏ, vắt thành nước phèn pha với phèn chua để giữ màu. Màu chàm làm từ lá cây tràm ngâm vôi cho rữa nát, đánh cho tơi và nổi bọt, rồi vớt lấy bọt đó lọc kỹ, cho nước vào và cô đặc lại. Màu xám làm từ lá gai phơi khô, giã nhỏ và sắc lại. Màu đen là hỗn hợp giữa lá bàng quết với tro rơm rạ đã được ủ kín 2 (2. Trần Đức Anh Sơn – Tranh Sình). Các bút chổi dùng để tô vẽ của tranh làng Sình cũng là một trong những sản vật điạ phương. Bút tôi màu thường được làm từ rễ gốc rứa, cắt vào một thời điểm nhất định trong năm, sau đó đem phơi và khoanh đầu lột vỏ để chừa phần ruột trong vừa đủ xơ, mềm để có thể ngấm mực phết màu như bút lông. Các loại bút rễ gốc rứa này cũng có rất nhiều các kích thước khác nhau để đáp ứng việc tô các loại nét khác nhau với các thể loại tranh khác nhau. Với tranh làng Sình xưa kia, cho dù là đồ hóa mã, nhưng cái nét tinh tế vẫn được bộc lộ một cách rõ ràng. Đặc biệt như bộ tranh Bát âm một trong số hiếm thể loại tranh có thể dùng để treo chơi trong dòng tranh này đòi hỏi sự tinh tế trong khắc ván cũng như tô màu. Ta có thể thấy trên các trang phục của các cô tố nữ có sự cầu kỳ từng chi tiết, như huê cài áo, huê giắt đầu, cho đến các văn đồng tiền, chữ thọ đến các đôi hài của các cô, đến các nhạc cụ của các cô cầm trên tay. Nét khắc của bộ tranh này khá mảnh, nhiều chi tiết nên bản khắc thường không sâu. Tuy nhiên trên một số ván khắc khá thì việc chú đến các mảng đặc và mảng rỗng cũng khá rõ ràng. Điều này tạo nên sự khác biệt rất lớn giữa tranh làng Sình với tranh Đông Hồ hay Hàng Trống, và đậm dấu văn hóa Huế. Cho dù trên các ván khắc mới hiện nay của tranh làng Sình, do trình độ tay nghề, cũng như do sự mai một của làng nghề các chi tiết cầu kỳ này dường như đã bị giản lược đi rất nhiều. Người ta có thể chỉ còn nhìn thấy tính đại khái trong việc tạo ra các chi tiết, nhưng trên các mảng trống đó cái dư âm của lối thẩm mỹ nơi đất thần kinh dường như vẫn phảng phất, mặc dầu đã không còn được chăm chút một cách thích đáng. Hơn nữa, nếu trên tranh Đông Hồ, Hàng trống, người ta còn thấy những ảnh hưởng rất rõ nét của văn hóa Trung Hoa trên một số mảng đề tài, hay một số kiểu dạng tranh, thì trên tranh Làng Sình nhân tố này có lẽ đã trở nên thuần túy hơn. Tính cầu kỳ và ảnh hưởng từ nghệ thuật trang phục cung đình là rõ rệt, nhưng hoàn toàn giải Hoa. Đặc biệt trên các tranh súc vật hay đồ vật thì lại mang hoàn toàn lối thẩm mỹ cũng như các nhìn dân gian. Sự ngô nghê trong các tạo hình, chỉ để người ta có thể nhận ra đó là con vật gì, chứ không có sự cách điệu hay tạo ra các tiêu chuẩn tạo hình. ở các ván khắc các con vật này lối biểu hình coi trọng mảng đặc và mảng rỗng như được thể hiện ra trên các tranh nhân vật. Ngày nay, trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế, tranh Sình vẫn có mặt như một phần không thể thiếu, nhưng cái cốt cách, hồn vía xa xưa của một thời thịnh vượng dường như đã không còn nữa. Những bộ ván cổ thất lạc cùng thời gian, mục nát cùng những mùa lũ hàng năm. Thêm vào đó sự xuất hiện rất nhiều thứ tranh tượng lòe loẹt của các đồ cúng đồ thờ cao cấp Trung hoa, khiến dòng tranh ngày thêm mai một. Thêm vào đó tính chất nhất thời của các bức tranh làm ra chỉ để hóa mã chứ không phải để treo như lối chơi tranh Tết của Đông Hồ, Hàng Trống, nên càng ngày tính chất đại khái và rẻ tiền của các nguyên vật liệu làm tranh càng được ưa chuộng hơn. Điều đó làm tranh làng Sình đã không còn giữ được cái phong vị vốn có một thời. Đây cũng là một điều đáng tiếc. Và do vậy vấn đề bảo tồn tranh làng Sình như một nét đẹp lâu đời của vùng đất kinh kỳ này rất đáng được sự quan tâm đầu tư của các cấp chính quyền.