Văn hóa tín ngưỡng của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi

1. Đặt vấn đề Theo GS. Ngô Đức Thịnh: “Trong quá trình hình thành một không gian địa - văn hóa nào thì vai trò của trung tâm là hết sức quan trọng để hình thành nên các đặc trưng văn hóa trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa nhằm tạo nên động năng trong phát triển, có sức thu hút, lan tỏa văn hóa và cũng là xu hướng phát triển của toàn bộ vùng văn hoá”.1 Từ đó, chúng tôi đưa ra giả thuyết lấy văn hóa tín ngưỡng ở kinh đô Huế hay vùng đất Ngũ Quảng trong thời Nguyễn làm trung tâm và lấy văn hóa tín ngưỡng ở huyện đảo Lý Sơn làm ngoại vi để tìm hiểu những giá trị đặc trưng của tín ngưỡng còn hiện hữu và lưu giữ như một thứ gia bảo của gia đình, dòng họ và cộng đồng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với bài vị tiền nhân như họ Trần ở An Vĩnh, họ Dương ở An Hải vẫn còn lưu giữ từ bao đời nay. Việc thờ cúng gia thần, thờ cúng nhân thần, thiên thần cũng mang sắc thái đặc trưng riêng trong từng khu xóm nhằm thích hợp môi trường sống của họ.2 Đó là lý do mà chúng tôi muốn tìm hiểu: “Văn hóa tín ngưỡng của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn”

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hóa tín ngưỡng của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN - QUẢNG NGÃI 1. Đặt vấn đề Theo GS. Ngô Đức Thịnh: “Trong quá trình hình thành một không gian địa - văn hóa nào thì vai trò của trung tâm là hết sức quan trọng để hình thành nên các đặc trưng văn hóa trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa nhằm tạo nên động năng trong phát triển, có sức thu hút, lan tỏa văn hóa và cũng là xu hướng phát triển của toàn bộ vùng văn hoá”.1 Từ đó, chúng tôi đưa ra giả thuyết lấy văn hóa tín ngưỡng ở kinh đô Huế hay vùng đất Ngũ Quảng trong thời Nguyễn làm trung tâm và lấy văn hóa tín ngưỡng ở huyện đảo Lý Sơn làm ngoại vi để tìm hiểu những giá trị đặc trưng của tín ngưỡng còn hiện hữu và lưu giữ như một thứ gia bảo của gia đình, dòng họ và cộng đồng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với bài vị tiền nhân như họ Trần ở An Vĩnh, họ Dương ở An Hải vẫn còn lưu giữ từ bao đời nay. Việc thờ cúng gia thần, thờ cúng nhân thần, thiên thần cũng mang sắc thái đặc trưng riêng trong từng khu xóm nhằm thích hợp môi trường sống của họ.2 Đó là lý do mà chúng tôi muốn tìm hiểu: “Văn hóa tín ngưỡng của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn”. Văn hóa tín ngưỡng là thể hiện sự gắn bó mật thiết và sự tác động qua lại giữa tín ngưỡng và văn hóa, là sự thể hiện trong văn hóa giao tiếp và văn hóa tâm linh. Bởi những đối tượng sùng bái, thờ phụng được thể hiện một niềm tôn kính.3 Đó là thể hiện sự kính cẩn trang nghiêm thông qua việc sắp xếp lễ vật, thành kính trong nghi thức khấn vái, đọc văn tế nhằm thể hiện niềm tin, ước nguyện của mỗi người, của dòng tộc đến thế giới tâm linh để mong những điều tốt lành. Đây chính là thể hiện của văn hóa, còn tín ngưỡng nhằm mang lại tính thiêng, những hoạt ? NGUYễN DUY ĐoÀI* * ThS., Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. động tín ngưỡng của người Việt nhằm xóa đi sự ngăn cách giữa con người để khơi dậy tinh thần tự nguyện khi tham gia việc thực hành tín ngưỡng đã hàm chứa trong cội nguồn ý thức về căn tính của từng một cá nhân khi tham gia. Bởi khi con người có nhận thức về cội nguồn của mình thì sẽ có những việc làm tốt cho cộng đồng và xã hội tốt hơn. Theo Nguyễn Tri Nguyên: “những giá trị phong tục tập quán, tín ngưỡng cũng như những sắc thái văn hóa trong dòng chảy văn hóa Việt Nam như là một hệ thống mở: từ dòng họ mở rộng ra phạm vi cộng đồng, xóm làng trên cơ sở một ý thức và tâm linh cội nguồn chung như Giỗ tổ Hùng Vương”.4 Vậy, người Việt ở huyện đảo Lý Sơn cũng đã thể hiện hệ thống mở như các tín ngưỡng thờ cúng tiền nhân, thờ cúng Việc lề của từng dòng họ mà có những binh phu đi lính Hoàng Sa như họ Phạm, họ Võ, họ Đặng hay việc cúng Tiền chủ... được mở rộng để tạo thành một tín ngưỡng trong cộng đồng như thờ cúng các vị Tiền hiền, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Mộ môi rùa tại Lân Lôi Công ở thôn Tây - An Vĩnh. 26 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên 2. Một số tín ngưỡng trong gia đình của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn Trong tín ngưỡng gia đình người Việt ở huyện đảo Lý Sơn đều có sự ảnh hưởng của văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm và văn hóa Đại Việt nên đã được hòa hợp thành một nhất thể thống nhất trong nghi thức tín ngưỡng. Điều đó cũng phản ánh những dấu ấn văn hóa tín ngưỡng của người Việt được tiếp nhận từ đất liền để làm phong phú hơn cho tín ngưỡng bản địa. Vậy, người Việt thờ cúng tổ tiên, thờ cúng gia thần trong gia đình có phải là thể hiện sự tôn kính hay sợ hãi không? Người tham gia thực hành tín ngưỡng thể hiện quan niệm, tín lý hướng đến tổ tiên, thần linh, các hữu thể siêu nhiên để làm gì? Các trưởng tộc, trưởng các chi phái, nhà sư hay pháp sư có phải làm cầu nối trung gian giữa con người và thế giới siêu nhiên đó không? Những điều đó có phải nhằm thỏa mãn cho việc thông giáo với thế giới bên kia hay là do điều kiện sống của người Việt gặp nhiều biến cố, rủi ro có thể xảy đến nên cần sự can thiệp của tổ tiên hay thần thánh? Malinowski đã nhận xét: “Môi trường xã hội càng bất trắc, nguy hiểm, bất an trong cuộc sống thì con người hướng đến những thế lực siêu nhiên, cho nên ở đâu có bất trắc thì ở đó cũng có bùa chú cúng kiếng, khi ấy con người cần đến những lễ nghi phù phép với mục đích là để thỏa mãn nhu cầu của mình”.5 Vì vậy, người Việt ở huyện đảo Lý Sơn cũng tin rằng, mọi biến cố xảy ra từ may mắn đến rủi ro trong cuộc sống đều có sự can thiệp của tổ tiên hay thần linh nên thông qua nghi thức tế lễ để được sự chỉ dẫn, truyền bảo bởi các thần linh. Ngoài ra, họ còn thờ những vị gia thần như Đương Kiểng Thổ địa chánh thần, thờ vị Tiền chủ, thờ Nam Hải giã xa đại tướng quân tôn thần tại nhà thờ họ Đặng. Hơn thế nữa, ở một số dòng họ có những vị nhân thần rất hiển linh, như: họ Phạm, họ Đặng, họ Võ,... khi gia đình hay dòng họ có hữu sự thì khấn vái, niệm hương hay tế lễ trong 2 hay 3 đêm thì “sẽ ứng lên” để chỉ bày, khuyên bảo người thân trong dòng tộc. Những người “ứng lên” đó có phải chăng trước đây là những người tài đức, nhân hậu nên khi chết được lấy quyền uy của thần thánh “sinh vi tướng, tử vi thần” nên người ta gọi là Quan6, bởi “người chết chỉ có thể xác là rời gia đình, còn linh hồn thì vẫn trở về ở đó, đặc biệt hơn những bài vị thực sự như là nơi cư ngụ của tổ tiên mà ẩn chứa điều gì rất linh thiêng và mầu nhiệm, vào dịp cúng việc lề hay tổ tiên ông bà thì những bài vị đó được rước ra khỏi hộp đựng như lời cung thỉnh chư vị linh tọa để có mặt vào ngày cúng giỗ này vậy”.7 Theo chúng tôi, tín ngưỡng trong gia đình của người Việt không chỉ cho người sống mà còn cho người đã khuất với những bậc nhân thần nên việc thờ tự của dòng họ, chi phái cũng được xem như một ngôi đền vậy. Theo nghi lễ cổ truyền của người Huế, khi cúng tổ tiên thì phải dâng cúng hai lễ chính để con cháu phải tham dự đầy đủ, đó là: “Lễ tiên thường diễn ra chiều hôm trước ngày kỷ niệm người mất, và lễ chính thường diễn ra vào sáng sớm ngày kỷ niệm người mất”8 thì tại huyện đảo Lý Sơn trong nghi thức cúng Việc lề tại các nhà thờ họ như: họ Phạm ở xã An Vĩnh, họ Nguyễn ở xã An Hải, hay các chi phái cũng diễn ra trong hai, ba ngày để vừa làm lễ cầu siêu cho chư tiên linh liệt vị vừa cầu an gia sự, dòng họ.9 Theo GS. Ngô Đức Thịnh: “ở tiểu vùng văn hóa xứ Huế, việc an táng người mất thì diễn ra rất nhanh, làm ma chay trong nhà thì múa hát trước quan tài gọi là hò đưa linh”10 thì tại huyện đảo Lý Sơn, chúng tôi đã tham dự đám tang của chị V.T.T ở thôn Đông - An Vĩnh vào tháng 3 năm 2015 cũng có hò đưa linh để tiễn đưa người mất như sau: “Ơi thuyền ta.... ơi....., đưa bà đi khẽ lướt nhẹ nhàng. Nghe chưa chúng tử.... ơi....... Hỡi bà ơi..., bữa nay bà từ biệt xóm láng giềng, bà con nội tộc họ hàng cùng thông gia ....ơi ơi....hò ơi ....Ôi bà bà ơi..... Thờ cúng Đương Kiểng tại nhà thờ họ Võ Xuân - An Vĩnh. 27Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên bà ra đi, bà chẳng trở về ờ...... thấy cảnh chồng gọi tứ bề quạnh hiu ờ ơi.... Hò .. hò.. đưa ...linh......Ơi... bà, bà ơi.... thuở bình sinh bà ăn ở đàng hoàng ờ..... Bữa nay đưa bà đi chứ tội nghiệp lắm anh em ơi... Bữa nay bà mất, bà con họ hàng cũng đều đưa....Ơi .... ơi...”.11 Hiện nay, tín ngưỡng thờ cúng gia thần vẫn được nhiều nơi thờ tự như ở Huế và một số vùng đất liền ở Ngũ Quảng, một số nơi khác cũng có tục thờ bà Tổ Cô, Đương Kiểng Thổ địa chánh thần, Tiền chủ nhưng rất ít, còn ở huyện đảo Lý Sơn việc thờ cúng này khá nhiều trong từng gia đình, gia tộc hay trong các nhà thờ họ tộc thông qua cách bài trí, nghi thức cúng và sự thể hiện trong bài văn tế12 nhân ngày cúng đầu năm mới hay cúng Việc lề. Theo Léopold Cadière cho rằng: “vai trò của bà cô, nhân vật gái già, chết không con không cái, dù đã qua thế giới bên kia mà tính nết gắt gỏng vẫn không chịu sửa. Thỉnh thoảng bà trở về đòi một cháu trai, hay một chắt gái, đứa bé lâm bệnh rồi chết; nó bị chuyển qua phục vụ bà cô trong âm phủ. Nên bà cô này không nằm trong số các tổ tiên thông thường; Bà thường có am nhỏ riêng, bên cạnh Từ đường”.13 Vậy, trong tâm thức người Việt ở vùng đất Ngũ Quảng cũng như ở huyện Lý Sơn từ xưa đến nay bà cô luôn ảnh hưởng trong đời sống tâm linh nên việc thờ tự trong từ đường thường dành riêng cho bà ở vị trí hướng Tây hay có một nơi thờ tự riêng, chẳng hạn như bà Phạm Tiên Điều ở thôn Đông - An Vĩnh. Đối với người dân Lý Sơn cũng như dòng họ Phạm Văn thì bà Phạm Tiên Điều rất linh hiển, nên người dân gọi bà là nhân thần. Theo chúng tôi ghi nhận được, với lòng thành chí tâm chí nguyện của dòng họ Phạm Văn để xây dựng lại Dinh thờ bà hay còn gọi dinh Bà Roi, ngày 18.4.2016 (nhằm ngày 12.3.2016), lúc 12 giờ đêm bà “ứng về” để gặp con cháu, dặn dò mọi việc. Theo sự chỉ dẫn của bà để con cháu tu bổ làm đền thờ từ việc cắm mốc tiêm đền cho đến ngày triệt hạ, thượng lương, khánh thành cũng được con cháu họ Phạm thực hành theo.14 Đây là hiện tượng không chỉ diễn ra ở một dòng họ mà hầu hết các cư dân cũng có niềm tin về thế giới bên kia. Điều này chúng tôi chưa lý giải được. Ngoài ra, bà Tổ Cô cũng được xem là người luôn khó tính, hễ người sống mà làm phật lòng thì sẽ bị phạt như trường hợp của chú Hà.15 Như vậy, bà Tổ Cô là người luôn gắn bó với dòng họ để hướng dẫn, giáo dục người thân trong cuộc sống về cách ứng xử chứ không phải là người nghiêm khắc, khó tính. Tục thờ ông Đương Kiểng thổ địa chánh thần không chỉ thờ trong gia đình mà còn thờ ở các dinh, miếu. Theo tìm hiểu, tín ngưỡng cổ truyền ở huyện đảo Lý Sơn có 39 di tích nhưng có đến 11 lân, miếu được thờ chính tự hay phối tự thờ ông Đương Kiểng Thổ địa chánh thần.16 Trong các từ đường Tiền hiền, chi phái hay gia đình của những bậc cao niên cũng thờ tự ông Đương Kiểng, như nhà ông Đặng Lại ở thôn Đông - An Vĩnh, nhà ông Dương Quỳnh ở thôn Đông - An Hải. Theo người dân thì: “Ông là vị thần hộ mệnh cho cộng đồng và gia đình, vì ông là người chánh thần nên luôn phù hộ giúp đỡ con dân”17, hay tại Lân An Hòa - thôn Đông - An Vĩnh, người ta cũng cầu xin ông Đương Kiểng cho việc đóng thuyền mới hay sửa lại thuyền Rồng cho đúng mực nước để thuận tiện cho việc đua thuyền vào dịp đầu xuân hay những dịp quan trọng khác của cộng đồng. Hiện nay, ở Huế vẫn lưu giữ tục cúng đất, tục lưu chủ và các vị thần khác, nghi thức này được diễn ra trong tháng 2 âm lịch tại các gia đình, dòng họ18, tại vùng đất đảo Lý Sơn này đã từng có người Chăm (người Hời) sinh sống nên trong nhận thức của người Việt luôn thể hiện sự tôn kính tiền chủ nên vẫn còn Thờ cúng Nam Hải tại nhà thờ họ Đặng - An Vĩnh. 28 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên lưu giữ tục cúng Tiền chủ, Thổ thần được thể hiện trong bài văn cúng có câu: “Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cư liệt vị, cổ trung lồi lạc đẳng chư chơn linh, hoang thần lạc mộ viết tự đẳng chư chơn linh”.19 Bởi đất không chỉ là hiện tượng vật chất giản đơn mà còn hàm chứa một lớp áo khác, đó là sự ảnh hưởng trên sinh mạng của từng người, như ở Quảng Bình có làng dù giàu hay nghèo gì cũng phải đi ăn xin ít nhất một vài ngày trong năm để khỏi tai họa. Bởi thần Đất muốn thế nên vùng nào, nơi nào cũng phải nhớ tới họ, không được làm phật lòng.20 Vì thờ thần Đất nên trong ba ngày đầu năm, những việc gì liên quan đến Thổ thần, Tiền chủ cũng là điều kiêng kỵ, mọi người muốn ra đồng làm mùa vụ hay chôn người mất thì phải chờ làng động thổ xong thì mới tiến hành thực hiện những việc của gia đình. Cho nên đất và thần có ảnh hưởng đến người sống là vậy, vì đất là nơi an nghỉ của những người chết nên có thể gây bất bình cho con người. Đối với thần Thổ chủ thì người Việt ở huyện đảo Lý Sơn thờ tại khám thờ trước nhà hay bàn thờ trước sân với mong muốn cầu được sự bình yên, sự che chở của thần linh. Theo Đinh Thị Dung: “Lễ cúng này chỉ tồn tại các vùng từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi nhưng đến nay chỉ có ở Huế là người dân vẫn tiến hành đều đặn nhất”21, nhưng chúng tôi thiết nghĩ bởi đây là dạng tín ngưỡng mang tính phổ quát chung trên toàn vùng đất Ngũ Quảng, còn ở huyện đảo Lý Sơn do điều kiện địa lý có tính đặc thù nên tín ngưỡng “trung tâm” đó sẽ được bảo lưu ở vùng “ngoại vi” với những nghi thức tín ngưỡng như cúng Việc lề, Tiền chủ, Thổ thần Trong nghi thức cúng gia thần cũng khác so với cúng tổ tiên, như việc thiết trí một bàn cúng ở ngoài sân và phải lạy ra theo hướng cổng nhà. Như vậy, về lý lẫn tình thì một số tín ngưỡng trong gia đình của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn thực hiện là việc làm tốt, cần được duy trì trong mỗi dòng họ, bởi nó thể hiện sự thích nghi với điều kiện sống của người Việt nơi đây. Từ tín ngưỡng của gia đình đã mở rộng thành tín ngưỡng của cộng đồng, điều này đã tạo nên những giá trị đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng ở huyện đảo Lý Sơn. 3. Một số tín ngưỡng cộng đồng của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn Theo Leopold Cadière cho rằng: “thờ cúng ông bà tổ tiên chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể thần thánh mênh mông, và việc thờ ông bà chỉ là một trong những khía cạnh đa dạng của tôn giáo người Việt”22, từ quan điểm này mà chúng tôi tìm hiểu về tín ngưỡng cổ truyền của người Việt ở Lý Sơn23 được bao quanh cả không gian địa lý của huyện đảo Lý Sơn chỉ 10 km2. Từ những cơ sở thờ tự tín ngưỡng đó cũng nói lên tâm thức của người dân luôn tin vào thần thánh, nên việc thể hiện nghi thức và chức năng giao tiếp đối với thần linh như muốn bày tỏ niềm tin: “Gửi lòng mình vào vật cúng, vật dâng, lời khẩn nguyện kèm theo thái độ thành kính. Đó là cách giao tiếp đặc biệt của một linh hồn nhỏ đối với một linh hồn lớn”.24 Để thực hiện tín ngưỡng trong cộng đồng thì người có chức sắc dâng cúng phẩm vật cho thần linh, như cúng lễ động thổ (3.1 âm lịch), lễ hội đua thuyền (4.1 - 7.1 âm lịch), thờ cúng cá Ông25, thờ cúng Bà Thiên Y A Na (25.2 âm lịch). Việc thể hiện trong tín ngưỡng cũng cho biết sự ảnh hưởng đó như thế nào, mức độ ảnh hưởng đó tùy theo độ đậm nhạt khác nhau, như theo sắc phong của triều Nguyễn ban cho Bà Thiên Y A Na là “Hoằng Huệ Phổ tế, linh cảm diệu thông mặc tướng thượng đẳng thần”26 nhưng trong bài văn tế tại Lân Vĩnh Hòa - xã An Vĩnh thì nâng lên tầm cao hơn về mặt tín lý và niềm tin, đó là “thượng thượng đẳng thần, sắc phong cựu cựu thượng đẳng thần”, còn tại Dinh Bà ở Trung Yên - xã An Hải thì “Sắc hoằng huệ phổ tế linh cảm diệu thông mặc tướng trung huy dực bảo trung hưng Thiên Y A Na diễn ngọc phi thượng thượng thượng đẳng thần”.27 Những tín ngưỡng đó theo Leopold Cadière: “Việc Tước vị Thờ cúng ông Dương Công Duyệt tại từ đường Họ Dương - An Hải. 29Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên thờ kính ấy lưu lại dấu tích của chủ thuyết sùng bái vật tổ cũng do bao đức tính tự nhiên khác, rồi do sợ hãi mà khoác cho chúng một tính chất siêu nhiêu”28, nên việc sùng bái bản thân cây đa, cây sồi, cây sến cũng là nơi vị thần đó ngự trong cây cũng gọi là thiên thần “Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa”. Vì vậy, người dân ở huyện đảo Lý Sơn không chỉ kính sợ cây mà còn kính sợ thần ngự trong đó, như là sự hòa quyện, gắn bó giữa thần và cây, nếu chặt cây đi thì sẽ xúc phạm đến thần. Chúng tôi tham dự tại Lân Xóm Giữa, thôn Tây, xã An Vĩnh, nhân dịp cầu an đầu năm cho bổn xóm, bổn vạn từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 1 âm lịch năm 2016 qua đoạn hội thoại giữa chủ Lân Nguyễn Đứng và Đức Ngư “ứng lên”29 để xin phép làm lại Lân Lôi Công. Đây là một hiện tượng chúng tôi chưa giải thích được, mà chỉ nêu lên để những nhà nghiên cứu, những nhà khoa học giải thích giúp. Hơn thế, James George Frazer cũng cho rằng: “Các tộc người cổ đại ở châu Âu biểu thị lòng tôn kính đối với cây sồi, cùng mối liên hệ của nó khi họ nhìn thấy cây sồi như là nhìn thấy Thượng đế vậy”.30 Đó là hiện tượng tín ngưỡng thiên thần nên mọi đặc tính tự nhiên cũng như sinh lực, hình thù xem như là những nhân tố của niềm tin có tương quan giữa thần với cây. Ngoài ra, người dân Lý Sơn cũng có tín lý về địa cuộc, địa hình gắn với truyền thuyết “Miếu lưỡi cày và Mộ môi rùa” để từ đó xây Lân Lôi Công nhằm trấn địa cuộc. Từ yếu tố địa lý tự nhiên như hình nhọn của hòn đá được người dân ví như cái răng của con rồng lửa, khi con rồng lửa phun ra thì nơi đây không còn nguồn nước để dùng nữa dẫn đến đói khát, bệnh tật, nên ở thôn Tây, xã An Vĩnh có địa danh là Suối Cạn. Địa cuộc này được người dân truyền cho nhau nghe về việc sử dụng ma thuật ngày xưa như “Tầm long điểm mạch”31 để rồi tin vào quyền lực siêu nhiên mà gây tai họa cho xóm làng “có sát thì mới có phát”32 là vậy. Trong tâm thức của người dân luôn hằng chứa niềm tin tín ngưỡng nên mọi sự vật, mọi hiện tượng đều có thần “thủy thạch kheo lăn vạn thần” được thể hiện trong bài văn tế, đó chính là quan niệm vạn vật hữu linh. Chính sự hòa nhập văn hóa tín ngưỡng đất liền và tín ngưỡng bản địa đã hình thành nên một tín ngưỡng dân gian phong phú như hiện nay tại huyện Thờ cúng ông Đương Kiểng tại Lân Vĩnh Lộc – An Vĩnh. Thờ cúng ông Đương Kiểng tại nhà thờ ông Đặng Lại. 30 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi Ñaø Naüng Miền Trung - Tây Nguyên đảo Lý Sơn. Đó chính là sản phẩm tinh thần nhằm đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống của người dân. Dù tín ngưỡng trong gia đình hay cộng đồng cũng thể hiện những chức năng của từng loại tín ngưỡng. Hiện nay, trong quan niệm tín lý, niềm tin của tín ngưỡng thì được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác đã ảnh hưởng trong ý thức hay vô thức của từng cá nhân, tập thể của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn. 4. Những giá trị đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng Theo GS. TS. Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa biển là hệ thống các giá trị do con người sáng tạo và tích lũy được trong quá trình tồn tại lấy biển làm nguồn sống chính”.33 Như vậy, văn hóa tín ngưỡng ở huyện đảo Lý Sơn cũng đã chứa đựng những giá trị do chính người dân nơi đây thể hiện qua tín lý, niềm tin trong quá trình tồn tại ở điều kiện sống khắc nghiệt. Từ đó, việc tiếp nhận những tín ngưỡng từ vùng đất Ngũ Quảng cũng như tín ngưỡng bản địa để rồi sáng tạo, tích lũy nhằm hình thành nên những giá trị văn hóa phi vật thể mang sắc thái đặc trưng riêng, những giá trị truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ gia đình cho đến cộng đồng như tín ngưỡng cúng Việc lề hay Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Đó là sự thể hiện mang tính giáo dục “uống nước nhớ nguồn” vậy. Hơn thế nữa, “đó chính là bảo tàng gia tài quý giá của người Việt để từ đó phát huy những giá trị truyền thống đó trong sự nghiệp xây dựng đất nước hôm nay”.34 Bởi văn hóa tín ngưỡng không chỉ là thuộc về quá khứ mà còn được nảy sinh, gần gũi trong đời sống thực tại nên nó luôn vận động chuyển đổi theo thời gian và không gian. Dù tín ngưỡng trong gia đình hay cộng đồng của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn cũng đã thể hiện một tiêu chuẩn quan trọng về chức năng giáo dục đạo đức, như việc tưởng nhớ công ơn tổ tiên, tiền nhân và thần linh đã có công khai khẩn, bồi đắp xóm làng. Bởi “dương sao âm vậy”, nên con người có linh hồn “thác là thể phách, hồn là tinh anh”, dù tổ tiên, thần linh đã không còn nhưng linh hồn vẫn luôn hiển hiện với con cháu trong từng “sát na” mà chúng ta không nhìn thấy. Từ đó mà con cháu phải ý thức việc ăn ở phải đạo, gìn giữ gia phong, củng cố gia tộc, tổ tiên của mình mà không dám làm những việc sai phạm. Điều này được thể hiện trong những câu đối treo ở từ đường của các dòng họ Phạm Văn hay họ Lê như: “Tổ tiên khai sáng lập cơ đồ. Hậu thế tâm thành nguyện phát huy”. Đó là kim chỉ nam để các thành viên trong gia đình, dòng họ tiếp tục duy trì việc thờ cúng tổ tiên và thần linh. Từ việc cúng phẩm vật như là phương