Về quá trình từ khởi đầu tới thời kì vàng son của vương quốc cổ Lan Na

TÓM TẮT Thời kì Lan Na xây dựng và củng cố vương quốc kéo dài khoảng 100 năm (1300 – 1400). Bước sang thế kỉ XV, Lan Na tiến vào giai đoạn phát triển rực rỡ trong khoảng 125 năm (1400 – 1525). Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là “Thời kì vàng son”. Dựa trên thành quả của một nửa thế kỉ tạo lập vương quốc, Lan Na dần dần phát triển thành một vương quốc lớn mạnh không chỉ ở việc mở rộng lãnh thổ mà còn ở khả năng gây ảnh hưởng chính trị của nó đến các quốc gia láng giềng. Với sức sống mạnh mẽ của một đất nước đang trỗi dậy, Lan Na đã truyền bá nhiều đặc trưng văn hoá và thành tựu của nó ra các nước láng giềng, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung về văn hoá khu vực, nhất là vùng cực Bắc Đông Nam Á - vùng đất tiếp giáp biên giới Myanma - Thái Lan - Trung Quốc - Lào hiện nay. Đến thế kỉ XIX, Lan Na trở thành một bộ phận lãnh thổ của Xiêm, nay là Thái Lan. Tuy vậy, nhiều di sản của nó, nhất là truyền thống văn hoá đặc sắc (truyền thống Phật giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, các ngành nghề thủ công ) của thời đại vàng son vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục phát huy ảnh hưởng ở Thái Lan ngày nay.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về quá trình từ khởi đầu tới thời kì vàng son của vương quốc cổ Lan Na, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
53 TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012 VỀ QUÁ TRÌNH TỪ KHỞI ĐẦU TỚI THỜI KÌ VÀNG SON CỦA VƯƠNG QUỐC CỔ LAN NA TRẦN XUÂN HIỆP(*) TRẦN ĐÌNH HÙNG (**) TÓM TẮT Thời kì Lan Na xây dựng và củng cố vương quốc kéo dài khoảng 100 năm (1300 – 1400). Bước sang thế kỉ XV, Lan Na tiến vào giai đoạn phát triển rực rỡ trong khoảng 125 năm (1400 – 1525). Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là “Thời kì vàng son”. Dựa trên thành quả của một nửa thế kỉ tạo lập vương quốc, Lan Na dần dần phát triển thành một vương quốc lớn mạnh không chỉ ở việc mở rộng lãnh thổ mà còn ở khả năng gây ảnh hưởng chính trị của nó đến các quốc gia láng giềng. Với sức sống mạnh mẽ của một đất nước đang trỗi dậy, Lan Na đã truyền bá nhiều đặc trưng văn hoá và thành tựu của nó ra các nước láng giềng, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung về văn hoá khu vực, nhất là vùng cực Bắc Đông Nam Á - vùng đất tiếp giáp biên giới Myanma - Thái Lan - Trung Quốc - Lào hiện nay. Đến thế kỉ XIX, Lan Na trở thành một bộ phận lãnh thổ của Xiêm, nay là Thái Lan. Tuy vậy, nhiều di sản của nó, nhất là truyền thống văn hoá đặc sắc (truyền thống Phật giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, các ngành nghề thủ công) của thời đại vàng son vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục phát huy ảnh hưởng ở Thái Lan ngày nay. Từ khoá: vương quốc Lan Na, vàng son, đặc trưng văn hoá, lãnh thổ, quyền lực ABSTRACT The building and prospering of the kingdom of Lan Na lasted 100 years (1300-1400). In the 15th century, Lan Na entered the stage in which it flourished for about 125 years (1400-1525), which was called "the golden age" by researchers. Based on the results of a half-century founding of the kingdom, Lan Na gradually developed into a powerful kingdom not only geographically but also politically, which greatly influenced its neighboring countries. With the strong vitality of an emerging country, Lan Na’s typical culture and its achievements had a tremendous impact on its neighboring countries, thus making worthy contributions to the development of the regional culture, especially the northernmost region of Southeast Asia - the land currently bordering Myanmar, Thailand, China and Laos. By the nineteenth century, Lan Na became part of the territory of Siam, now Thailand. However, many of its heritage, especially the unique cultural traditions (Buddhism, the language, the architecture, the sculpture and the crafts ...) of the golden age, still keeps its value and continues to promote its impact on Thailand today. Key words: the kingdom of Lan Na, "the golden age, typical culture, territory, power Quá trình mở rộng thế lực của ngƣời Tai Yuan (1) gắn liền với vị vua đầy tài năng (*)ThS, Đại học Duy Tân (**) ThS, Đại học Sƣ phạm - Đại học Huế Mangrai đã đƣa đến sự ra đời một vƣơng quốc mới thống nhất và lớn mạnh vào cuối thế kỉ XIII - vƣơng quốc Lan Na. Tuy vậy, sự tạo lập ấy chỉ là “bƣớc nhảy” có ý nghĩa 54 đầu tiên trên hành trình phát triển của vƣơng quốc. Bài viết này sẽ làm rõ quá trình phát triển của Lan Na ở Đông Nam Á lục địa trong các thế kỉ từ XIV- XVI. 1. SỰ CỦNG CỐ VỀ MẶT NHÀ NƢỚC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BƢỚC ĐẦU CỦA LAN NA (1300 – 1400) Sau khi thành lập vƣơng quốc (1296), Mangrai bắt tay vào việc xây dựng bộ máy chính trị và quản lí vƣơng quốc. Nhƣng tổ chức chính trị thời Mangrai còn khá sơ khai. Một bộ luật thành văn đã đƣợc xây dựng dƣới thời Mangrai (còn gọi là Manrayavinicchaya hay Mangraisat). Mangraisat (2) đƣợc soạn thảo dựa trên sự tham khảo các điều luật từ bộ luật Mon Dharmasastra của Hariphunchai. Bộ luật, về cơ bản, đã trở thành nền tảng cho việc cai quản bằng luật pháp của vƣơng quốc Lan Na dƣới thời vua Mangrai và trong các thế kỉ tiếp theo. Khi vua Mangrai mất vào năm 1317, ông đã tạo lập đƣợc một vƣơng quốc khá rộng lớn bao gồm các mƣờng riêng biệt của ngƣời Yuan trên lƣu vực sông Kok, sông Ing và lãnh thổ của vƣơng quốc Mon Hariphunchai cũ. Ông đã tạo đƣợc ảnh hƣởng với ngƣời Shan (Müang Nai) ở phía tây vƣơng quốc, cũng nhƣ ngƣời Khün (Chiang Tung) ở phía Tây Bắc và ngƣời Lü (3) (Sipsòng Panna) ở phía Bắc(4). Sự thống nhất của Lan Na phụ thuộc nhiều vào uy tín và tài năng lãnh đạo của vua Mangrai. Sau khi Mangrai chết, Lan Na đã bị chia thành hai trung tâm quyền lực trong giai đoạn 1317-1340: Chiang Mai - Lamphun và Chiang Rai - Chiang Saen. Ngƣời kế vị Mangrai là ngƣời con trai thứ hai Cai Songkam (1317- 1327), đảm trách công việc ở Chiang Mai trong vòng 4 tháng. Sau đó, ông chuyển đến trị vì tại Chiang Rai và giao ngai vàng ở Chiang Mai lại cho con trai của ông là Thao SaenPu. Ngƣời con trai thứ hai là Thao Nam Thuam đƣợc cử đến cai quản Fang và ngƣời thứ ba là Pho Thao Ngua đƣợc giao cai quản Chiang Khong. Sau một vài sự lục đục nội bộ, SaenPu đã trở lại ngai vàng ở Chiang Mai vào năm 1324 và củng cố quyền lực. Sau khi Songkram chết (1327), SaenPu chuyển đến cai quản Chiang Rai thay cha và giao Chiang Mai lại cho Kham Fu quản lí. Cũng năm 1327, SaenPu đã cho xây dựng một toà thành (wiang) trên một nhánh phía Tây của sông Mekong, cách Chiang Rai khoảng 50 km về phía Đông Bắc, rồi chuyển đến sống và cai trị ở đó. Chiang Saen trở thành nơi định đô mới của nhà vua. Vị trí của thành phố này cách thành cổ Ngoen Yang (đã đổ nát) khoảng 1500 wa (1w = 2m) (5) . Vai trò kinh tế quan trọng của Chiang Saen là trung tâm nối liền các tuyến giao thƣơng trên sông, ngƣợc dòng thì lên Vân Nam, xuôi dòng thì sang Lào, rất thuận tiện. Vì thế, Chiang Saen nhanh chóng trở thành một trung tâm thƣơng mại quan trọng ở cực Bắc Lan Na và Chiang Saen đã tiếp tục giữ vị thế ấy trong các thế kỉ tiếp theo. Vào giai đoạn cuối thời trị vì của Kham Fu (1325–1336), nhà vua đã yêu cầu nhà cai trị ở Nan giúp ông tấn công tiểu quốc Phayao độc lập, sau đó sáp nhập nó vào lãnh thổ Lan Na. Mặc dù Nan đòi chia sẻ quyền lợi (từ sự hợp tác thành công đó) nhƣng đã bị Kham Fu từ chối và còn bị gây áp lực trở lại. Chiến tranh đã nổ ra giữa Lan Na và Nan vào năm 1336, với sự thất bại từ phía Nan. Tuy nhiên, Nan không suy yếu hẳn, mà còn tồn tại trong khoảng một thế kỉ nữa. Một thời gian ngắn sau khi hợp nhất với Phayao, vùng trung lƣu lƣu vực sông Mae Khong cũng đạt đƣợc sự thịnh vƣợng vào giữa thế kỉ XIV)(6). Sau khi Kham Fu chết (1345/46), 55 ngƣời nối ngôi là Pha Yu (1337 - 1355) đã rời Chiang Saen, quay về lại Chiang Mai vào năm 1346, chấm dứt tình trạng hai trung tâm quyền lực cùng tồn tại. Điểm nổi bật trong thời cai trị của Pha Yu là ông đã ủng hộ mạnh mẽ Phật giáo và đã cho xây dựng ngôi chùa Li Chiang Phra (Wat Phra Singh). Ông cũng đã xây dựng một ngôi bảo tháp (Cheli) để thờ di hài của vua cha - Kham Fu. Sự thay đổi có ý nghĩa về văn hoá và chính trị này diễn ra trong suốt thời trị vì của vua Pha Yu và con trai ông Kün Na (1355 - 1385). Thời trị vì của Kün Na diễn ra một cuộc cải cách tôn giáo, đƣa đến sự xuất hiện một giáo phái Phật giáo mới ở Lan Na. Kün Na đã cho mời một vị sƣ tên là Sumanathera từ vƣơng quốc láng giềng Sukhothai đến Lan Na vào năm 1369, để giúp ông trở thành một tín đồ Phật giáo Singhalese (tín ngƣỡng của ngƣời Singhalese, dân tộc chiếm đa số dân cƣ ở Sri Lanka, nơi đƣợc xem là trung tâm của Phật giáo nguyên thuỷ lúc bấy giờ), thuộc dòng tu Udumburagiri, một dòng tu của các nhà sƣ tu ở trong rừng(7). Thoạt đầu, nhà vua đã chọn Lamphun làm nơi xây dựng để xây dựng giáo phái Phật giáo mới. Theo một bản văn khắc ở Wat Phra Yün (Lamphun), việc chọn Lamphun thay vì Chiang Mai làm nơi xây dựng trung tâm tôn giáo mới đã phản ánh tầm quan trọng về văn hoá - tôn giáo bền vững của Lamphun, một kinh đô của ngƣời Mon, từ thời kì tiền Lan Na cho đến lúc đó(8). Tuy nhiên, sau khi suy xét, có lẽ Sumanathera muốn thoát ra khỏi tầm ảnh hƣởng của truyền thống Phật giáo Mon và muốn xây dựng nên một giáo phái mới thuần chất Phật giáo Singhalese. Vào năm 1373, Sumanathera đã chuyển thánh tích mà ông đã mang từ Sukhothai tới chùa Suan Dòk (ngoại ô Chiang Mai). Tại đây, ông đã sáng lập giáo phái Wat Suan Dok theo truyền thống Phật giáo Singhalese. Grabowsky cho rằng: Trong khi Wat Phra Yün tƣợng trƣng cho sự liên tục của lịch sử tiền Thái xƣa (Mon-Lawa), thì Wat Suan Dòk tƣợng trƣng cho sự liên kết giữa Phật giáo Theravada với nền chính trị của ngƣời Yuan mà không đƣa đến xung đột với truyền thống Mon. Việc liên kết này đã giúp thúc đẩy sự tập trung chính trị ở Lan Na và thúc đẩy sự phát triển của một ý thức khu vực đồng nhất giữa ngƣời Yuan với cộng đồng đa dân tộc nơi đây(9). Với những việc làm đó, Pha Yu và Kün Na là những ngƣời đã đặt nền tảng cho sự lan tỏa mạnh mẽ của Phật giáo và đƣa tôn giáo vào đời sống chính trị, yếu tố đã dẫn đến thời đại vàng son của vƣơng quốc Lan Na. Saen Müang Ma (1385-1402) kế vị vua cha vào năm 1385, lúc 23 tuổi. Trong thời trị vì của Müang Ma, chiến tranh đã nổ ra với Ayuthaya (Xiêm) - một thế lực lớn của ngƣời Thái ở hạ lƣu lƣu vực sông Chao Phraya vào năm 1386. Thắng lợi đã thuộc về Lan Na. Chiến thắng của Chiang Mai đƣợc viết trong các biên niên sử miền Bắc Thái (10) và đã đƣợc nguồn sử liệu Xiêm thừa nhận. Müang Ma đã cho quân tấn công Sukhothai nhằm mở rộng thế lực và lãnh thổ vƣơng quốc. Nhƣng việc làm có ý nghĩa trong thời trị vì của ông có lẽ là việc tập trung phát triển Phật giáo vƣơng quốc. Một trong số đó là cho xây dựng Phra Chedi Luang với quy mô lớn đến 2000 wa. Ngƣời Yuan chƣa có chữ viết khi họ đến Lan Na và cũng không có truyền thống Phật giáo. Tổ chức hành chính, tổ chức xã hội và nền tảng kĩ thuật của họ tinh tế hơn và hiệu quả hơn những cƣ dân địa phƣơng (Mon, Lawa, Khmer). Dù nền văn hoá của 56 họ chƣa thể sánh bằng những cƣ dân ở đây nhƣng họ sớm thu hẹp khoảng cách bằng cách kết hợp với ngƣời Mon(11). Khoảng năm1350, phần lớn Lan Na đã đƣợc cai trị bởi ngƣời Yuan, kiểm soát một cách trực tiếp hay gián tiếp hoặc chịu ảnh hƣởng của Chiang Mai. Vậy là trong một thời gian ngắn, ngƣời Yuan không chỉ thay thế ngƣời Mon và các nhóm ngƣời khác trong vai trò là những nhà quản lí của vùng này mà còn mở rộng hơn nữa phạm vi lãnh thổ của ngƣời Mon trƣớc đây. 2. SỰ PHÁT TRIỂN TỚI THỜI KÌ VÀNG SON CỦA VƢƠNG QUỐC LAN NA (1400 - 1525) Thời kì Lan Na xây dựng và củng cố vƣơng quốc kéo dài khoảng 100 năm (1300 - 1400). Bƣớc sang thế kỉ XV, Lan Na tiến vào giai đoạn phát triển rực rỡ trong khoảng 125 năm (1400 - 1525). Nhiều nhà nghiên cứu gọi đó là “Thời kì vàng son”. Saen Müang Ma chết vào mùa xuân năm 1402, các vị bô lão đƣợc triệu tập ở Chiang Mai đã bầu Sam Fang Kaen làm vị vua mới. Dƣới thời vua Sam Fang Kaen (1402 - 1441), một cuộc chiến tranh giành ngai vàng đã diễn ra mà địch thủ là Ñi Kum Kam (anh cùng cha khác mẹ với Sam Fang Kaen) kết hợp với quân Sukhothai dƣới thời trị vì của Sai Lüthai (1398–1419). Cuộc đấu tranh đƣợc miêu tả chi tiết trong các nguồn biên niên sử ở miền Bắc Thái, gây nên sự thiệt hại nặng nề của cả hai bên: “Số lượng lớn quân Chiang Mai và quân miền Nam (Sukhothai) bị giết. Họ giết lẫn nhau gần một cái ao, cái ao do đó mang tên là Nòng Saen Tòn (cái ao của 100000 chân tay bị chặt)”(12), cái tên này vẫn đƣợc sử dụng cho tới tận ngày nay. Cuối cùng, chiến thắng thuộc về quân đội Chiang Mai. Sau chiến thắng này, sức mạnh và sự thống nhất Lan Na đƣợc củng cố. Ngoài một cuộc chiến tranh nữa với nhà Minh (Trung Quốc) vào năm 1402(13), thì hầu hết trong thời trị vì dài của Sam Fang Kaen, ngƣời dân đƣợc sống trong cảnh hoà bình. Từng bƣớc, ông ấy đã củng cố quyền thống trị lên toàn bộ vƣơng quốc Lan Na. Sam Fang Kaen đã bổ nhiệm ngƣời con trai lớn nhất của ông làm phó vƣơng (uparat) ở thành Wiang Cetlin gần Chiang Mai. Những ngƣời con khác của ông đƣợc cử đến cai trị những vùng đất quan trọng khác của vƣơng quốc nhƣ Chiang Saen, Chiang Rai, Phayao, Phrae và Fang. Cũng dƣới thời Sam Fang Kaen, một cuộc cải cách mới của Phật giáo Singhalese đƣợc thực hiện. Kết quả của cuộc cải cách này là một giáo phái mới xuất hiện: giáo phái Wat Pa Daeng hay còn gọi là Nikai Langkawong, đƣợc truyền bá bên cạnh các giáo phái cũ Wat Suan Dòk, Wat Phrathat Hariphunchai (Wat Phra Yün). Giáo phái Wat Pa Daeng đƣợc các vua thời sau ủng hộ nên nhanh chóng phát triển, gây ảnh hƣởng hơn cả hai phái Phật giáo cũ. Vào năm 1441, nhà vua truyền ngôi vị lại cho con trai là Tilokaracha (1442 - 1487). Vua Tilok (tên viết tắt của Tilokaracha) theo chính sách khoan dung tôn giáo, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất mối bất hoà của các giáo phái Phật giáo khác nhau mà không có sự ép buộc nào. Nhƣng ông ấy có sự ủng hộ mạnh với giáo phái Nikai Langkawong và đặt nó dƣới sự bảo trợ của hoàng gia. Dƣới thời trị vì của Tilok, việc liên kết tôn giáo với chính trị đƣợc thực hiện mạnh mẽ. Đến thời điểm này, Tilok đã đƣợc tôn vinh là quốc vƣơng vũ trụ/vạn vật (universal monarch, tiếng Pali gọi là Cakravartin). Ý tƣởng Cakravartin có mối quan hệ gần gũi với khái niệm dharmaraja (đại vƣơng: vua - 57 thần) của ngƣời Khmer, điều này đƣợc minh họa trong một đoạn của Biên niên sử Jinakalamalipakaranæam ca ngợi đức vua: "Ông ấy được ban cho đức tính dũng cảm, sự tinh thông và huy hoàng; ông là người có khả năng nhận thức rõ cái gì là tốt với chính mình và với người khác; ông là người thận trọng, trung thành, ngoan đạo và sở hữu sự hiểu biết uyên thâm. Kể từ khi nhận được sự phong thánh, ông ấy được biết tiếng vua vũ trụ Siridhamma, hoàng đế Tilok" (14) . Tinh thần Cakravartin cũng đƣợc chứng tỏ qua cái tên đầy đủ của nhà vua là Cao Siridhamma Cakraphat Tilokrarachathirat – “Chúa tể của dharma, cakravartin, người cai trị cả 3 thế giới, vị vua của các vua”(15). Những điều này cũng đã chứng tỏ sự thắng lợi của xu hƣớng tập quyền nhà nƣớc dƣới thời trị vì của Tilok. Ý niệm của Tilok về vị vua “vừa là ngƣời trị vì” và “vua vũ trụ (tôn giáo)” đã đƣợc chia sẽ bởi một ngƣời cùng thời với ông ấy, vua Bòrommatrailokanat(16) (Trailok) của Ayutthaya (1448–1488). Nhƣng hai vị vua là kẻ thù không đội trời chung với nhau. Mấy mƣơi năm cuối thế kỉ XV, các cuộc chiến tranh lớn đã nổ ra giữa hai vƣơng quốc mà tiêu điểm là cuộc tranh giành quyền kiểm soát Sukhothai - Phitsanulok. Sukhothai - Phitsanulok có một vị thế quan trọng. Những tuyến đƣờng thƣơng mại nối kết Lan Na với miền thƣợng Vân Nam và miền biển phải đi qua Sukhothai - Phitsanulok, cũng nhƣ từ đây đi xuống vùng hạ Miến hay đến vịnh Xiêm. Việc kiểm soát Sukhothai bởi Lan Na hay Ayuthaya đều đem lại chiến thắng khải hoàng cũng nhƣ một sự thuận lợi dài lâu trƣớc kẻ thù của họ. Không bên nào giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh này dƣới thời trị vì của Tilok và Trailok. Hai năm sau khi Tilok lên ngôi, Lan Na đã gây chiến tranh với tiểu quốc Nan. Nan, một nơi có vị thế quan trọng về kinh tế vì các mỏ muối, cuối cùng bị sáp nhập vào Lan Na năm 1449. Tiểu quốc Phrae, bạn đồng minh của Nan, cũng trở thành một bộ phận của Lan Na. Nói chung, trong thời trị vì của Tilok, ông đã thu phục ngƣời Lü và Khün ở Ken Tung (tiểu quốc Shan) và Chiang Rung (Vân Nam). Ông ấy chinh phục và sáp nhập Nan, Phrae và 11 tiểu quốc Shan. Lan Na đạt lãnh thổ lớn nhất dƣới thời Tilok, trải dài từ sông Salween (Miến Điện) đến sông Mekong, từ Keng Tung và Chiang Rung ở phía Bắc (Vân Nam) đến Lamphun (có khi là Sukhothai) ở phía Nam (trung lƣu sông Chao Phraya). Một trong những dấu ấn đỉnh cao của Phật giáo Lan Na là cuộc Kiết tập Phật giáo quốc tế lần thứ 8 (Sangayana) vào năm 1477 đã diễn ra tại Wat Jet Yot gần Chiang Mai nhằm mục đích thanh chỉnh kinh Phật (phù hợp với kinh điển Phật giáo) khỏi sự sai lạc. Vua Tilok cho xây dựng ngôi tháp mộ (stupa) Phra Maha That tại Lamphun, và cho đúc nhiều chuông và tƣợng. Cũng vào năm 1477, bộ kinh mới Tipitæaka bằng tiếng Pali đƣợc xuất bản. Thập niên cuối trong thời trị vì của mình, Tilok đã cho xây dựng một số lƣợng lớn đền tháp trên khắp đất nƣớc(17). Những điều đó đã biến Lan Na thành một trong những trung tâm Phật giáo lớn và có nhiều ảnh hƣởng trên thế giới thời kì đó. Tilok chết vào năm 1487, cháu nội của ông ấy là Ñòt Chiang Rai (Ñòt Ciang Hai) kế vị ngai vàng. Biên niên sử không cho chúng ta biết nhiều về thời gian trị vì tƣơng đối ngắn ngủi của vị vua này. Từ năm 1495, ông ấy buộc phải nhƣờng ngôi lại cho ngƣời con trai 14 tuổi của ông tên là Müang Kaeo. Dƣới thời trị vì của Müang Kaeo, 58 văn chƣơng Phật giáo bằng tiếng Pali rất thịnh hành. Những tác phẩm nổi tiếng nhƣ Jinakalamalipakaranam, Camadevivama và Mulasasana đƣợc viết trong thời gian này. Nhà vua đã ủng hộ việc xây dựng các tự viện với số lƣợng chƣa từng thấy. Có 3 dòng phật giáo chính ở Lan Na: Wat Suan Dòk, Wat Pa Daeng và Wat Phrathat Hariphunchai, đã đƣợc hoà giải bởi vua Müang Kaeo. Ba dòng phật giáo này đƣợc sự ủng hộ của Müang Kaeo và coi Müang Kaeo là “một nhà cai trị công bằng và đạo đức” (thammikarat)(18), trong khi đó (nhƣ hành động đáp lại), vua đã ban cho các nhà sƣ nhiều đặc quyền, đặc lợi. Song song với sự phát triển tâm linh - tinh thần là sự phát triển về vật chất và các lĩnh vực khác. Học giả Hans Penth đã tóm tắt sự phát triển đó nhƣ sau: Lan Na có một bộ máy quản lí phong kiến đƣơc tổ chức tốt; các dự án phát triển các vùng, liên vùng và cơ sở hạ tầng nhƣ nhƣ hệ thống đƣờng sá, những con đƣờng lữ hành đƣợc xây dựng; các con đập, con kênh và bánh xe nƣớc lớn (luk) phục vụ mục đích tƣới tiêu đƣợc thực hiện; quân đội vững mạnh; thợ thủ công và kiến trúc sƣ điêu luyện; đông đảo các nhà sƣ có kiến thức uyên bác – họ đã viết ra những cuốn sách nổi tiếng và quý giá; tỉ lệ những ngƣời biết chữ cao, bởi vì hầu hết những ngƣời đàn ông trẻ thƣờng vào chùa làm sƣ và học tập trong một thời gian; nhiều thầy thuốc giỏi; luật pháp và phép tắc đƣợc biên soạn rõ ràng, trong đó dành nhiều chỗ cho sự phát triển cá nhân; các loại thuế vừa phải và nhà nƣớc giới hạn việc lao động nghĩa vụ cho các vƣơng công quý tộc. Nhà vua và các hoàng tử có quyền lực tuyệt đối nhƣng thƣờng xuyên hỏi ý kiến rộng rãi của các quan lại và nhà sƣ. Những ngƣời bình dân thích thú với cảnh tự do cá nhân(19). Tất cả những việc làm trên đã tạo nên một Lan Na thịnh vƣợng vào năm 1500. Trong suốt thời đại vàng son, Lan Na đã phát triển thành một trung tâm thƣơng mại quan trọng. Trong bài nghiên cứu về sự tƣơng tác lẫn nhau qua đất liền giữa nhà Minh và Đông Nam Á, Sun Laichen đã đƣa ra ý kiến rằng, ở Lan Na “một khối lượng lớn đáng kinh ngạc kim loại đã chi cho các mục đích tôn giáo [...], không nghi ngờ về một sự phát triển lớn về thương mại, cả nội thương lẫn ngoại thương”(20). Hầu hết các kim loại quan trọng nhƣ vàng, bạc, đồng, sắt có lẽ đến từ Vân Nam. Việc hợp nhất tạm thời miền Sipsòng Panna, một vùng giàu các mỏ bạc và quặng sắt nhƣ một chƣ hầu của Chiang Mai trong suốt thời trị vì của Tilok đã đƣa đến sự nổi lên của nền kinh tế Lan Na. Những mối quan hệ thƣơng mại gần gũi giữa Lan Na và Trung Quốc vẫn đƣợc tiếp tục trong các thập niên tiếp theo. Lan Na cũng duy trì trao đổi văn hoá và thƣơng mại với các quốc gia láng giềng khác nhƣ Miến Điện, Ayuthaya, Lansang và giữ vai trò là trung tâm xuất khẩu và nhập khẩu quan trọng. Khi Lan Na bƣớc vào thời đại vàng son và trở thành một quyền lực mang tính lãnh đạo, nhiều đặc trƣng văn hoá và thành tựu của nó đƣợc truyền sang các khu vực láng giềng nhƣ chữ viết, phật giáo, kiến trúc điêu khắc những nơi mà Lan Na từ xƣa đã có quan hệ gần gũi. Luang Prabang (Lan Chang), Chiang Tung (vùng đất của ngƣời Thái Khün, ở cự