Về thủ pháp dịch cải biến

Tóm tắt: Cải biến (adaptation) là một thủ pháp thường được sử dụng trong thực hành dịch, nhưng cho đến nay các nhà lí luận vẫn chưa có ý kiến thống nhất về ưu điểm và hạn chế của thủ pháp này. Có người quan niệm cải biến là một loại hình dịch, một quá trình sáng tạo, một thao tác cần thiết nhằm biểu đạt ý nghĩa của một phát ngôn và duy trì sự cân bằng của hoạt động giao tiếp liên ngôn ngữ. Ngược lại, một số tác giả lại cho rằng cải biến không phải là dịch, và cải biến đồng nghĩa với phóng tác. Vậy cần phải nhìn nhận cải biến như thế nào? Tiêu chí nào cho phép khẳng định cải biến là cần thiết và xác đáng? Bài viết này sẽ cố gắng trả lời những câu hỏi nêu trên.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về thủ pháp dịch cải biến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 56 VỀ THỦ PHÁP DỊCH CẢI BIẾN Vũ Văn Đi Trường Đại học Hà Nội Tóm t t: Cải biến (adaptation) là một thủ pháp thường được sử dụng trong thực hành dịch, nhưng cho đến nay các nhà lí luận vẫn chưa có ý kiến thống nhất về ưu điểm và hạn chế của thủ pháp này. Có người quan niệm cải biến là một loại hình dịch, một quá trình sáng tạo, một thao tác cần thiết nhằm biểu đạt ý nghĩa của một phát ngôn và duy trì sự cân bằng của hoạt động giao tiếp liên ngôn ngữ. Ngược lại, một số tác giả lại cho rằng cải biến không phải là dịch, và cải biến đồng nghĩa với phóng tác. Vậy cần phải nhìn nhận cải biến như thế nào? Tiêu chí nào cho phép khẳng định cải biến là cần thiết và xác đáng? Bài viết này sẽ cố gắng trả lời những câu hỏi nêu trên. Abstract: Adaptation is a method commonly used in interpreting and translation, however, theorists have not reached an agreement on its strength and limitations. On one hand, adaptation is considered a type of interpreting and translation, a creative process, an essential act to express the meaning of discourse and maintain the balance of inter-language communication activities. On the other hand, some authors claim that adaptation is not interpreting and has the same meaning with paraphrasing. So how should adaptation be figured out? Which criteria affirm the importance and properness of adaptation? This article tries to answer these questions. Mở đầu Cải biến (adaptation) là một thủ pháp thường được sử dụng trong thực hành dịch. Ưu điểm và hạn chế của thủ pháp này đã được phân tích sâu trong nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về dịch thuật. Có thể nói cho đến nay các học giả vẫn chưa có ý kiến thống nhất về vấn đề này. Một số tác giả như Nida (1969), G.L Bastin (1993) quan niệm cải biến là một loại hình dịch, một quá trình sáng tạo, một thao tác cần thiết nhằm biểu đạt ý nghĩa của một phát ngôn và duy trì sự cân bằng của hoạt động giao tiếp liên ngôn ngữ vốn có thể bị phá vỡ nếu chỉ áp dụng thủ pháp dịch đơn thuần. Khác với quan điểm trên, một số nhà lí luận như Ladmiral (1994) lại cho rằng cải biến không còn là dịch, tức là khi áp dụng thủ pháp này, người dịch đã vượt qua giới hạn của dịch thuật. Newmark (1982) cũng nhấn mạnh rằng trong nhiều trường hợp, cần phải dịch cải biến (dịch giao tiếp theo thuật ngữ của tác giả), nhưng chủ trương áp dụng dịch ngữ nghĩa, kiên quyết không định hướng hoàn toàn vào đối tượng tiếp nhận bản dịch theo quan điểm của trường phái Nida. Cuộc tranh luận đến nay vẫn còn tiếp diễn. Vậy cần phải nhìn nhận cải biến như thế nào? Tiêu chí nào cho phép khẳng định cải biến là cần thiết và xác đáng? Bài viết này sẽ cố gắng trả lời những câu hỏi nêu trên. 1. Lịch sử vấn đề “cải biến” Lịch sử nghiên cứu dịch thuật cho biết từ thời văn minh cổ đại, người ta đã biết áp dụng phương pháp cải biến. Ciceron (106-43 trước CN) và Horace (65-8 trước CN)1 đã phân biệt hai chiến lược dịch: hoặc là dịch nguyên văn từng câu chữ của nguyên bản, hoặc là dịch tự do, hay cải biến. Cuộc tranh luận giữa hai quan điểm này diễn ra suốt thời kỳ Trung Cổ và không dẫn đến một kết luận rõ ràng. Giới dịch thuật phải chờ đến thế kỷ 17 mới được chứng kiến “sự lên ngôi” của kỹ thuật cải biến mà kết quả là những bản dịch “đẹp nhưng bất tín”. Những người ủng hộ xu hướng này biện minh rằng cần cải biến nguyên bản cho phù hợp với thị hiếu của thời đại, phù hợp với những giá trị đã được thừa nhận trong ngôn ngữ và văn hóa đích và điều này đảm bảo cho bản dịch 1 Dẫn theo Guidère, M. Introduction à la traductologie. Penser la traduction: hier, aujourd’hui, demain, De Boeck, 2010. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 57 được công chúng đón nhận và được phát hành rộng rãi. Hai thế kỷ sau, người ta lại kêu gọi hạn chế “sự tự do” hoặc “sự bất tín” trong dịch thuật bằng cách tôn trọng nguyên bản hơn khi chuyển ngữ. Thời kỳ này các tài liệu khoa học kỹ thuật được xuất bản nhiều, và xu hướng trung thành với câu chữ của nguyên bản ngày càng thắng thế. Vì thế người ta dựa vào quan điểm đạo đức nghề nghiệp để phê phán chiến lược cải biến và cho rằng chiến lược này chỉ làm biến dạng nguyên bản một cách phi lý. Đến thế kỷ 20, một số tác giả tiếp tục nhận định rằng cải biến là một sự phản bội tác giả, thậm chí coi đó là tư tưởng thao túng và vi phạm nguyên bản cần phải loại trừ khỏi lĩnh vực dịch thuật. Ví dụ, Begman (1985) không chấp nhận phương pháp cải biến vì nó ngăn cản độc giả bản dịch làm quen và lĩnh hội “yếu tố nước ngoài» trong ngôn ngữ và văn hóa bản địa. Trong các nghiên cứu đương đại về dịch thuật, chúng ta tìm được nhiều phương pháp tiếp cận và nhiều định nghĩa về cải biến. Trước hết là ý kiến đáng chú ý của Vinay và Darbelnet trong công trình Phong cách học so sánh tiếng Anh và tiếng Pháp, xuất bản lần đầu vào năm 1958: các tác giả định nghĩa cải biến là một trong những thủ pháp dịch, được sử dụng khi tình huống mà thông điệp nguyên bản quy chiếu đến không tồn tại trong ngôn ngữ và văn hóa đích, nhằm vượt qua sự khác biệt ngôn ngữ và tạo ra một sự tương đương về tình huống văn hóa xã hội. Hai ông đưa ra sơ đồ cải biến như sau: M1 ← S 1 = S 2 → M2 M = Message (thông điệp); S = Situation (tình huống) Sơ đồ trên cho thấy tình huống giao tiếp không đồng nhất trong hai ngôn ngữ và áp dụng phép cải biến chính là thiết lập những tương đương tình huống. Minh họa cho quan điểm của mình, các tác giả dẫn ví dụ sau: trong một tiểu thuyết của Anh có đoạn miêu tả một người cha đi công tác xa về, cô con gái chạy ra đón bố, và ông bố hôn lên môi con gái. Quyết định dịch câu He kissed his daughteur on the month trong nguyên bản tiếng Anh sang tiếng Pháp là il embrassa sa fille sur la bouche (ông hôn lên môi con gái) tức là đưa vào văn hóa Pháp một yếu tố không tồn tại trong nền văn hóa đó, và điều này có thể bị chối bỏ. Vì vậy người dịch cần tạo ra một tình huống tương đương bằng cách cải biến một phần nguyên bản, ví dụ il serra tendrement sa fille dans ses bras (ông trìu mến ôm con gái). Thống nhất với quan điểm của hai nhà nghiên cứu trên, một số tác giả đương đại khác cho rằng cải biến là một loại hình dịch bắt buộc khi dịch một số thể loại văn bản, ví dụ, khi dịch các vở bi kịch sang một ngôn ngữ khác để công diễn, hoặc các văn bản quảng cáo nhằm khuyến khích tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ. Đối với những loại văn bản đó, với quan điểm địa chính trị Brisset (1990) coi cải biến là một quá trình bản địa hóa nguyên bản, trong khi đó theo Santonyo (1989) đây là hình thức nhập tịch ngôn ngữ nhằm tạo ra hiệu ứng như bản gốc. Ý kiến của Truffaut (2010) cũng rất đáng chú ý khi ông quan niệm cải biến không chỉ đơn thuần là một hình thức dịch, mà còn là một hoạt động biên soạn sáng tạo nhằm thay đổi thể loại văn bản, hoặc sửa đổi một phần nguyên bản. Theo tác giả, đối với các văn bản quảng cáo thương mại, người dịch phải có khả năng sáng tạo thực sự mới có thể tạo ra một hiệu ứng giao tiếp tương đương như nguyên bản. Hơn nữa đây là loại văn bản đặc biệt, thường sử dụng các thủ pháp tu từ tinh tế như lối chơi chữ, kết hợp vần điệu, những quy chiếu văn hóa riêng biệt của một cộng đồng. Ví dụ, rõ ràng không thể áp dụng thủ pháp dịch nguyên tự đối với những quảng cáo như của hãng Biti’s (Bước chân Long Quân xuống biển, bước chân Âu Cơ lên non, bước chân Tây Sơn thần tốc, bước chân vượt dãy Trường Sơn; bước chân tiến vào thiên niên kỷ mới; Biti’s nâng niu bàn chân Việt) vì điều này gây khó hiểu đối với độc giả đích do khác biệt về quy chiếu văn hóa. Đến đây, chúng ta có thể trả lời câu hỏi thế nào là cải biến? Theo chúng tôi cải biến là thao tác tái diễn Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 58 đạt thông điệp và sửa đổi một phần các biểu thức ngôn ngữ của nguyên bản nhằm làm cho bản dịch phù hợp hơn với ngôn ngữ và văn hóa đích trên bình diện quy chiếu văn hóa và hiệu quả giao tiếp. 2. Các hình thức cải biến Có thể xác định được ba nhóm cải biến chính là lược bỏ, thêm vào, và thay thế. • Lược bỏ là không dịch một phần của nguyên bản: đó có thể là một từ, một ngữ, một câu hay một đoạn văn. Trong ví dụ dưới đây, có thể lược bỏ nhóm từ ở phía Nam vì việc dịch nhóm từ này là không cần thiết và gây khó hiểu đối với độc giả Việt Nam: trong tiếng Pháp, “các nước Phương Nam” chỉ những nước nghèo, nói chung nằm ở phía Nam của các lục địa phát triển, ví dụ, một số nước châu Phi cận Xahara. Thông tin này được coi là không quan trọng đối với độc giả Việt Nam. Nguyên bản tiếng Pháp: Dans cette tâche, le Vietnam et la France sont partenaires naturels. Vous et nous mettons déjà notre coopération au service des Etats les plus pauvres du Sud. Dịch ngữ nghĩa: Trong sứ mệnh ấy, Việt Nam và Pháp là những đối tác tất yếu. Các bạn và chúng tôi đã từng hợp tác trong việc giúp đỡ các quốc gia nghèo nhất ở phía Nam. Dịch cải biến: Trong sứ mệnh ấy, Việt Nam và Pháp là những đối tác tất yếu. Hai nước chúng ta đã hợp tác trong việc giúp đỡ các quốc gia nghèo nhất. • Thêm vào, tức là đưa vào bản dịch những thông tin không có trong nguyên bản nhằm giải thích cho rõ hơn hoặc mở rộng nội dung của nó, giúp cho độc giả bản dịch dễ dàng diễn giải nội dung đó. Trong ví dụ dưới đây, thay vì dịch nguyên văn là “Thượng viện”, cần dịch cải biến là “Thượng viện Pháp”. Nguyên bản tiếng Pháp: Le Sénat vote le projet de loi sur la formation professionnelle, amputé de sa partie sur l’inspection du travail. Dịch ngữ nghĩa: Thượng viện bỏ phiếu thông qua dự luật về đào tạo nghề nhưng cắt bỏ chương về thanh tra lao động. (Câu này dành cho độc giả Pháp, ở trên đất Pháp vì vậy tác giả bài chỉ cần viết là “Thượng viện”. Dịch cải biến: Thượng viện Pháp bỏ phiếu thông qua dự luật về đào tạo nghề nhưng cắt bỏ chương về thanh tra lao động. (Câu dịch dành cho độc giả Việt Nam, vì vậy yếu tố thêm vào là cần thiết). • Thay thế là thay một yếu tố văn hóa của nguyên bản bằng một yếu tố khác được coi là tương đương. Đây là sự thiết lập tương đương về tình huống văn hóa xã hội theo Vinay và Darbelnet. Ví dụ, trong bộ truyện tranh Những cuộc phiêu lưu của Tintin của Hergé, hai nhân vật anh em sinh đôi là Dupond và Dupont (hai từ đồng âm này chỉ khác nhau ở phụ âm cuối [t] ≠ [d]), đã được cải biến sang tiếng Anh là Thomson và Thompson, tiếng Tây Ban Nha là Hernandez và Fernandez. Lối nói so sánh của tiếng Việt gày như con hạc thờ sẽ được cải biến sang tiếng Pháp là gày như một cái đinh như trong ví dụ sau: “Suốt ngày được sửa gáy vít đầu thiên hạ mà Tám vẫn không đủ vắt mũi đút miệng. Người đã gày như con hạc thờ lại một vợ bốn con quanh năm hết dật tạm lại vay nóng”. → Mais avec ce métier qui consistait à rendre les autres plus beaux, le pauvre Tam avait lui bien du mal à vivre. Maigre comme un clou, Tam avec sa femme et ses quatre enfants, était toujours dans le besoin, cherchant d’un bout de l’année à l’autre quelques dongs à emprunter ça et là. Đầu đề cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc Mạc Ngôn, giải thưởng Nobel văn học năm 2012, nguyên văn là Phong nhũ phì đồn (vú to mông nở) đã được dịch giả Trần Đình Hiến Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 59 cải biên thành “Báu vật của đời”2 cho trang nhã hơn, phù hợp hơn với độc giả Việt Nam. Với phát ngôn sau, trích từ một báo cáo khoa học tại Hội thảo về đa dạng sinh học năm 2007 tại Hà Nội: «La conservation de la diversité spécifique exceptionnelle de la cordillère annamite3 en tant que patrimoine de l’humanité», chúng tôi thấy không thể dịch nguyên văn nhóm từ cordillère annamite vì nó chứa một tính từ đã quá lỗi thời (dãy Trường sơn An Nam) nên đã cải biến là: Bảo tồn đa dạng sinh học đặc thù của dãy Trường Sơn, một di sản của nhân loại. Lý do của những hình thức cải biến trình bày trên đây là gì? Trả lời cho câu hỏi này chính là thảo luận về tính thích đáng của phương pháp dịch cải biến, đồng thời nêu ra được những hạn chế của nó. Chúng tôi sẽ thảo luận vấn đề này ở phần sau. 3. Biện minh cho tính thích đáng của phương pháp dịch cải biến Thực hành dịch thuật cho thấy cải biến trước hết là phương pháp cho phép chúng ta vượt qua những yếu tố ngôn ngữ bất khả dịch. Thực vậy, việc dịch những đơn vị này thường là theo cách từ đối từ sẽ làm mất đi sự cân bằng thậm chí gây bế tắc trong giao tiếp liên ngữ. Chính vì thế cải biến là một giải pháp tất yếu. Xét ở góc độ ngôn ngữ, đúng là khi lựa chọn chiến lược này người dịch đã vượt ra khỏi địa hạn ngôn ngữ, đã “bất tín” với tác giả nguyên bản, vì thế, Ladmiral đã phát biểu rằng “cải biến không còn là dịch nữa” như chúng tôi đã trình bày trên đây, và ý kiến của ông không phải là không có cơ sở. Nhưng vì dịch là một hành vi giao tiếp, và mục tiêu quan trọng nhất của nó là truyền đạt lại nội dung thông điệp, dù có phải sử dụng những phương tiện hay hình thức diễn đạt khác với nguyên bản. Theo tinh thần này, cải biến cần được nhìn nhận như một phương pháp dịch, có cơ sở lí thuyết, giống như các phương pháp khác. Có 2 Báu vật của đời, tác giả Mạc Ngôn, dịch giả Trần Đình Hiến, nhà xb T/P HCM, 2007. 3 Báo cáo của dự án FSP «Biodiva», 2007. thể dẫn nhiều ví dụ minh họa cho ý kiến này. Để dịch cụm từ tóc mây, ta không thể ghép tóc (cheveux) với mây (nuages), mà cần cải biến thành les cheveux légers comme nuages (tóc nhẹ như mây). Người Pháp không nói tóc mây mà tóc nhẹ. Trường hợp này có thể minh họa cho sự khác biệt về tư duy giữa hai cộng đồng ngôn ngữ. Cụm danh từ phức những giọt mồ hôi màu xanh cũng phải cải biến thành những giọt mồ hôi của sinh viên tình nguyện vì dịch nguyên văn sẽ cho kết quả là một cụm từ mà độc giả Pháp sẽ thấy khó hiểu: des gouttes de sueur verte. Như vậy trước một cụm từ, một lối nói đặc thù, hay một biểu thức ngôn ngữ phức tạp mà dịch nguyên văn có thể khiến độc giả đích diễn giải sai ý nghĩa, người dịch phải chọn một trong hai chiến lược chính: hoặc cải biến tức là tìm kiếm sự tương đương về hiệu quả giao tiếp hoặc dịch từ đối từ, dịch nguyên tự và chú giải ngay trong văn bản hoặc ở cuối trang. Chiến lược thứ nhất thể hiện khả năng tự do sáng tạo ở mức độ cao nhất của người dịch và sự ưu tiên cho văn hóa và ngôn ngữ đích. Với lựa chọn thứ hai, người dịch quyết định dành ưu tiên cho văn hóa và ngôn ngữ nguồn. Ngoài việc xử lí những yếu tố bất khả dịch, cải biến còn được coi là một giải pháp giúp vượt qua những khó khăn do nội dung văn hóa của nguyên bản gây ra. Cải biến một thông điệp chính là thực hiện một số biến đổi trên bình diện ngôn ngữ và văn hóa sao cho phù hợp với đặc điểm văn hoá của đối tượng tiếp nhận bản dịch. Nói cách khác, cải biến là thay thế một tình huống văn hóa xã hội đặc thù của ngữ nguồn bằng tình huống tương đương trong ngữ đích. Có thể thấy nội dung văn hóa của nguyên bản thường gây trở ngại cho giao tiếp liên ngữ và liên văn hóa. Thế mà những khác biệt về văn hóa, chính trị giữa các cộng đồng xã hội luôn nhiều hơn tương đồng. Do vậy chú ý đến người tiếp nhận bản dịch và những đặc điểm văn hóa xã hội của họ là một trong những yêu cầu quan trọng, là lý do thực hiện dịch cải biến. Sau đây là một số ví dụ minh họa cho quan điểm trên. Ti u ban 1: Đào to chuyên ng 60 Theo A. Meseriacov4, khi dịch một truyện ngắn thời Trung đại của Nhật đầu đề Câu chuyện về Ông già Taketori, trong nguyên bản có câu “ngày xưa có người đàn ông”, viện sĩ N.I. Konrat (1981- 1970) đã dịch sang tiếng Nga là “Ngày xưa có nhà hiệp sĩ”. Theo tác giả, sở dĩ viện sĩ đã cải biến như vậy là vì cách nói “nhà hiệp sĩ” thích hợp với văn hóa châu Âu hơn là cụm từ “người đàn ông” và ông đã thêm vào bản dịch “chất trang nhã”, và cả chất văn hóa châu Âu. Trong dịch văn học, cải biến được coi là thủ pháp hữu hiệu nhất nhằm tạo ra tương đương về hiệu quả giao tiếp, bởi lẽ các tác phẩm văn học chứa đựng nhiều ẩn dụ và tham chiếu văn hóa (référence culturelles) nói chung là bất khả dịch. Quan sát bản dịch tiếng Pháp truyện ngắn Người đàn bà tóc trắng của Nguyễn Quang Thiều (1993), do Phan Thế Hồng5 thực hiện, chúng ta tìm được nhiều trường hợp cải biến đáng chú ý. Trước hết đầu đề của truyện ngắn này đã được chuyển thành Bí mật khủng khiếp về mái tóc trắng của bà Nhím (Le terrible secret des cheveux blancs de la vieille Nhim). Nhiều đầu đề một số tác phẩm khác của nhà văn cũng được dịch cải biến như: Mùa hoa cải bên sông → Cô gái bên sông (La fille du fleuve); hoặc Nấc tràng hạt thứ hai mươi mốt → Giấc mơ kỳ lạ của ngài Ba Nhuận khả kính (Le rêve étrange de l’honorable monsieur Ba Nhuận); Thị trấn những cây bàng cụt → Cô bé bán bún (La petite marchande de vermicelles). Không chỉ các tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều, đầu đề các tác phẩm văn học dịch khác cũng ít khi trung thành với nguyên bản mà được cải biến theo quyết định của người dịch. Hiện tượng này cũng diễn ra trong văn học dịch nước ngoài. Tiểu thuyết The Thorn Birds của nhà văn Australia Colleen McCullough, xuất bản năm 4 A. Meseriacov, Tính sáng tạo của người dịch, Đỗ Thanh dịch từ tiếng Nga, báo Văn Nghệ, số 29, 17-7-2010. 5 Nguyễn Quang Thiều Le terrible secret des cheveux blancs de la vieille Nhim, version française par Phan Thế Hồng , Maison d’édition de l’Aube 1988. 1977 được chuyển sang tiếng Pháp là Les oiseaux se cachent pour mourir = Những con chim giấu mình chờ chết, và tiếng Việt là Tiếng chim hót trong bụi mận gai. Có lẽ cần thêm nhiều cuộc thảo luận để khẳng định cải biến đầu đề là tất yếu. Trước mắt chúng tôi cho rằng đúng là tất yếu nếu đầu đề đó chứa một liên tưởng (allusion) hay một tham chiếu văn hóa bất khả dịch, như trường hợp của Nấc tràng hạt thứ hai mươi mốt, vốn là một liên tưởng đến đời sống tín ngưỡng Phật giáo phương Đông, xa lạ với độc giả Pháp ngữ. Còn những trường hợp khác chúng ta cần cân nhắc. Một số trường hợp cải biến khác bắt nguồn từ mục đích vượt qua sự khác biệt rõ rệt về đặc trưng văn hóa xã hội, và những khác biệt về tư duy giữa hai cộng đồng ngôn ngữ. Những ví sau minh họa cho ý kiến này. Ngôi nhà lúc nào cũng thâm u như chùa → La maison n’avait pas changé: profonde et silencieuse comme un tombeau = Ngôi nhà lúc nào cũng thâm u như lăng mộ Người Mô nhỏ nhưng rắn chắc như tre → Mo n’était pas grand mais c’était un gars bien bâti = Mô không to cao nhưng đó là một chàng trai có thân hình cân đối. Vào đi, người hôi như chuột. Ra giếng mà tắm (Lời nhân vật Nhím nói với cô bé ăn mày trong truyện ngắn) → Entre donc. Mais tu pues comme un bouc. Va d’abord te laver au puits = Vào đi, người hôi như dê. Ra giếng mà tắm. Trong làng có một người chuyên viết điếu văn cho các cụ già khi về cõi tiên. Thế mà khi bà Nhím chết người viết điếu văn đành chịu bó tay. → Il existe pourtant dans ce village un homme préposé aux discours qui accompagnent les vieillards morts de leur belle mort. Mais quand la vielille Nhim a rendu l’âme, cet homme a été paralysé et n’a pas réussi à écrire une seule ligne. = Trong làng có một người chuyên viết điếu văn tiễn biệt các cụ già khi qua đời. Thế mà khi bà Nhím chết, người viết điếu văn bị tê liệt không thể viết nổi một dòng. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 61 Trong những ví dụ trên, dịch giả đã thay thế những quy chiếu văn hóa của ngữ nguồn bằng những quy chiếu quen thuộc trong ngữ đích: âm u như chùa được thay bằng như lăng mộ; hôi như dê thay cho hôi như chuột... Giữ lại những quy chiếu của người Việt trong bản dịch tiếng Pháp có thể sẽ tạo ra một hiệu ứng khác với hiệu ứng mà tác giả mong muốn, vì độc giả Pháp ngữ không có cùng trải nghiệm, các