Trước ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, cả
hai “đệ nhất phu nhân” ở hai miền đất nước đều sinh ra ở
Tiền Giang. Vì sao một vùng đất mới khai phá bên bờ sông
Tiền lại có nhiều “hoàng hậu” nhất nước? Tất nhiên là thiếu
nữ Tiền Giang phải đẹp (điều kiện cần để trở thành hoàng
hậu), nhưng còn yếu tố nào nữa? Và vì sao thiếu nữ ở đây lại
làm mê hồn các vì vua
25 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1491 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vì sao Tiền Giang là nơi có nhiều Hoàng hậu nhất trời Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vì sao Tiền Giang là nơi
có nhiều Hoàng hậu nhất
trời Nam?
Trước ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, cả
hai “đệ nhất phu nhân” ở hai miền đất nước đều sinh ra ở
Tiền Giang. Vì sao một vùng đất mới khai phá bên bờ sông
Tiền lại có nhiều “hoàng hậu” nhất nước? Tất nhiên là thiếu
nữ Tiền Giang phải đẹp (điều kiện cần để trở thành hoàng
hậu), nhưng còn yếu tố nào nữa? Và vì sao thiếu nữ ở đây lại
làm mê hồn các vì vua?
Bà hoàng sống gần trọn triều Nguyễn
Trong lịch sử thế giới, không có bà hoàng nào đứng vững, có
quyền chi phối quốc gia, sống qua hơn 5 đời vua. Thế nhưng,
ở nước Việt Nam lại có một bà hoàng hậu (sau đó là thái hậu)
sống qua 8 đời vua. Không chỉ sống, bà còn chi phối công
việc, tư cách, đạo đức của các vị vua là con, cháu, chắt của
mình. Đó là bà Từ Dũ. Cha bà là ông Phạm Đăng Hưng, thi
đỗ Tam trường trong kỳ thi kinh dưới thời vua Gia Long,
được triều đình cử làm quan ở nhiều nơi, sau về kinh thành
Huế. Tên đúng của bà là Thái hậu Từ Dụ, sau này bị đọc lệch
thành Từ Dũ.
Bà tên thật là Phạm Thị Hằng, sinh ngày 19 tháng 5 năm
Canh Ngọ (tức ngày 20 tháng 6 năm 1810) tại giồng Sơn Quy
(Gò Rùa), làng Gò Công, huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (sau
thuộc tỉnh Gò Công, nay thuộc Tiền Giang). Cô bé Phạm Thị
Hằng dù sống ở vùng quê nghèo Gò Công nhưng vẫn được
học hành đàng hoàng. Cô nổi tiếng hiếu hạnh, làu thông kinh
sử, rất mực hiền thục.
Ngay từ thuở nhỏ, bà đã nổi tiếng thông minh, xinh đẹp, hiếu
thuận, ham đọc sách. Năm 14 tuổi, bà rời Gò Công, theo cha
ra kinh thành Huế. Cũng trong năm đó, bà được Thuận Thiên
Cao Hoàng Hậu Trần Thị Đang - vợ kế của vua Gia Long -
tuyển triệu vào hầu hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên
Tông, con vua Minh Mạng, và là cháu trai của bà. Năm 15
tuổi, bà sinh con gái đầu lòng, năm sau lại sinh cô công chúa
thứ hai. Năm Kỷ Sửu (1829), bà sinh người con thứ ba là trai,
đặt tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, người về sau trở thành
vua Tự Đức.
Năm 1841, Miên Tông lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiệu Trị,
bà trở thành cung tần, được phong làm Giai phi, rồi Nhất giai
phi. Năm 1847, vua Thiệu Trị mất, con bà là Hồng Nhậm
được chọn nối nghiệp, trở thành vua Tự Đức. Lên ngôi vua,
Tự Đức nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn cho mẹ, nhưng bà nhất
định chối từ. Mãi đến năm 1849, nhân dịp khánh thành cung
Gia Thọ, bà mới thuận nhận Kim bảo (sách vàng và ấn vàng)
và tôn hiệu là Hoàng Thái hậu. Năm 1883, vua Tự Đức mất,
để di chiếu tôn bà làm Từ Dụ Thái hoàng Thái hậu. Bà mất
năm 1902, thọ 92 tuổi.
Bà Từ Dũ được người đời ngưỡng mộ như là bà hoàng tài
đức vẹn toàn, yêu nước thương dân, sống giản dị, khiêm tốn.
Những đức tính của bà đã ảnh hưởng rất lớn đến tư cách của
vua Tự Đức. Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim
chép: “Đức Từ Dụ thuộc sử sách đã nhiều mà biết việc đời
cũng rộng. Khi Đức Từ Dụ ban câu chi hay, thì ngài biên
ngay vào một quyển giấy gọi là Từ Huấn Lục.
Một hôm rảnh việc nước, ngài ngự bắn tại rừng Thuận Trực,
gặp phải khi nước lụt. Còn hai ngày nữa thì có kỵ đức Hiến
Tổ, mà ngài chưa ngự về. Đức Từ Dụ nóng ruột, sai quan đại
thần là Nguyễn Tri Phương đi rước. Nguyễn Tri Phương đi
được nửa đường, vừa gặp thuyền ngự đương chèo lên, mà
nước thì chảy mạnh, thuyền không đi mau được. Gần tối,
thuyền ngự mới tới bến. Khi ấy trời đang mưa, mà ngài vội
vàng lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức
Từ Dụ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng chi cả.
Ngài lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi
ngài nằm xuống xin chịu đòn.
Cách một hồi lâu, Đức Từ Dụ xoay mặt ra, lấy tay hất cái roi
mà ban rằng: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực
khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu
kỵ”. Ngài lạy tạ lui về, nội đêm đó, ngài phê thưởng cho các
quan quân đi hầu ngự...”.
Lo lắng đến cuộc sống nhân dân, bà thường hỏi vua Tự Đức
về việc đắt thất và dạy bảo những điều thiết thực về chính trị.
Năm 1874, khi hay tin Pháp xâm chiếm toàn cõi Nam Kỳ và
buộc triều đình Huế ký hòa ước nhượng địa, bà bỏ cả ăn
uống, mặt ủ mày chau theo vận nước khuynh nguy...
Ở Huế, bà nổi tiếng là một bà thái hậu rất thương dân. Hằng
năm, đến lễ mừng thăng cấp, mừng thọ của bà, bà đều tìm
cách thoái thác hoặc trì hoãn, thực chất là sợ khổ dân... Tính
tình Hoàng Thái hậu Từ Dũ đoan chính, nhàn nhã, cử chỉ
khiêm cung lễ độ, ở trong cung ai cũng cảm mến và quý
trọng đức độ. Trong cuộc sống hằng ngày, bà rất tiết kiệm
tiêu dùng và nghiêm khắc đối với sự lãng phí, xa hoa. Bà
thẳng thắn phê phán tệ tham ô chức quyền trong triều chính
và các địa hạt.
Bà nói: “Từ xưa đến nay, quan lại chỉ một chữ tham mà chưa
trừ được. Mọt nước hại dân cũng từ đó mà ra. Làm quan mấy
năm, vị nào cũng giàu có gấp bội. Của ấy không lấy của dân
thì lấy ở đâu? Nên phải quyết trừ”. Bà khuyên triều thần
“một sợi tơ, một hột gạo cũng đều là máu mỡ của dân, cho
nên lãng phí đã không ích gì, mà lại đáng tiếc lắm vậy, chi
bằng cất vào kho để dùng vào việc nước”. Bà phê phán gắt
gao kẻ dựa vào quyền thế gia tộc của bà để cầu vinh, hoặc
che chở kẻ phạm pháp.
Bà cũng bảo vua Tự Đức rằng: “Người trong dòng họ chớ lo
việc không được làm quan, phải chuyên cần học hỏi, thi đậu
vẻ vang gia tộc; chỉ lo là bất tài mà thôi. Ngoài ra, kẻ làm
điều trái phép, Hoàng đế nên triệu về kinh, nghiêm trị để làm
gương cho người ta biết”. Song song đó, bà rất trân trọng các
quan trung thần, muốn có nhiều người như Võ Trọng Bình
thanh liêm, Phạm Phú Thứ thẳng thắn và Nguyễn Tri Phương
công trung cần cán, không từ việc mệt nhọc.
Bà nói: “Nếu được nhiều người như vậy, đặt ra mỗi tỉnh một
người thì việc nước, việc dân được bổ ích rất nhiều, mà vua
cũng khỏi lo nhọc ngày đêm, ngặt vì còn có những tham quan
bóc lột của dân không chán, mà lại không biết hối cải. Những
của bất nghĩa không được tồn tại, được vài đời đã khánh tận,
sau con cháu cùng khổ, thiên hạ chê cười, chi bằng làm điều
nhân nghĩa, lưu truyền phước trạch lâu dài...”.
Hiện, ở Huế còn lưu truyền bài vè dài 700 câu ca ngợi công
đức của bà. Các sử gia triều Nguyễn không tiếc lời ca ngợi
bà. Vua Tự Đức đã viết hẳn cuốn sách Từ Huấn Lục ghi lại
những lời mẹ dạy. Bệnh viện phụ sản lớn nhất nước hiện nay
(Bệnh viện Từ Dũ - TP.HCM) cũng mang tên bà.
Bà hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn
Đúng 110 năm sau ngày bà Từ Dũ nhập cung hầu vua, vào
ngày 20/3/1934, một cô gái Gò Công khác tên Nguyễn Hữu
Thị Lan cũng nhập cung cận kề bệ Rồng. Khác với tất cả 12
hoàng hậu triều Nguyễn trước đó chỉ được phong hoàng hậu
sau khi qua đời, bà hoàng cuối cùng của triều đại được vua
ban cho ân sủng đặc biệt. Một ngày sau lễ cưới, vua Bảo Đại
phong tước vị “Nam Phương Hoàng hậu” cho Nguyễn Hữu
Thị Lan lúc bà mới hơn 19 tuổi. Với vẻ đẹp đằm thắm, tính
tình hiền lành của thiếu nữ vùng Gò Công, tố chất thông
minh của cô tú tài “Tây học” (bà học tại Trường Couvent Des
Oiseaux – trường nữ danh tiếng ở Paris) cùng vẻ đài các của
con gái một điền chủ giàu có bậc nhất Nam kỳ, bà đã làm cho
vị vua nổi tiếng phong lưu ngây ngất ngay từ lần gặp đầu
tiên. Bà từng ba năm liền đoạt giải Hoa hậu Đông Dương.
Bà sinh ngày 4 tháng 12 năm 1914 tại Gò Công, Tiền Giang,
xuất thân trong một gia đình công giáo (nên còn có tên là
Marie Thérèse) giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ. Bà
là con ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bính, cháu ngoại
ông Lê Phát Đạt (huyện Sĩ) ở Nam Kỳ - một trong bốn người
giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20.
Nguyễn Hữu Hào đi du học ở Pháp về, rồi mở đồn điền trà và
cà phê ở cao nguyên Trung phần. Các điền chủ khác thường
ít chữ nên chỉ loay hoay với ruộng đất, vườn tược, sống nhờ
bổng lộc từ đó mà ra. Nhưng ông bà Nguyễn Hữu Hào có
vốn Tây học, có đầu óc nên mới nghĩ đến khai thác đồn điền.
Gia đình Nguyễn Hữu Hào chỉ có hai người con gái, Nguyễn
Hữu Thị Lan là thứ hai, chị là Agnès Nguyễn Hữu Hào lấy
chồng Pháp.
Năm 12 tuổi, Nguyễn Hữu Thị Lan được gia đình cho sang
Pháp học tại trường Couvent des Oiseaux - một trường nữ
danh tiếng ở Paris. Tháng 9 năm 1932, sau khi thi đậu tú tài
toàn phần, Nguyễn Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan
của hãng Messagerie Maritime. Vua Bảo Đại hồi loan cũng
đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người không gặp nhau.
Nam Phương hoàng hậu.
Về Việt Nam được gần một năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ
mát tại Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace
tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương chiêu đãi, Nguyễn
Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Về cuộc tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng
Việt Nam: “Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng
tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường
nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một
cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao
và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam
pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép
Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng”.
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại: “Hôm đó, ông Darle,
Đốc Lí thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi và
tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng
cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút
và vái chào nhà vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn
cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài
bằng lụa đen mua bên Pháp thôi.
Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo
ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta
chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô
nhà. Vừa đi ông vừa nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng
thượng mới được”. Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi
thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà.
Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào
và kính cẩn nói: “Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An
và người cháu gái, cô Marie Thérèse”. Nhờ các nữ tu ở
trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải
làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc quân vương, vì vậy tôi
đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng đế, quỳ một gối và
cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi
dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng
nhạc vừa nổi lên theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và
dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm
đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng
tôi được nhà vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc,
chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp
và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu Tây đối với
Ngài”. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị
Lan ra điều kiện: Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong
Hoàng hậu Chánh cung ngay trong ngày cưới.
Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 năm 1934 ở Huế. Khi
đó Bảo Đại đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi.
Ngay ngày hôm sau, lễ tấn phong Hoàng hậu được diễn ra rất
trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Nhà vua phong Hoàng hậu tước
vị Nam Phương Hoàng hậu. Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan
được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ
đối với các vợ vua triều Nguyễn. Vì 12 đời vua Nguyễn
trước, các bà vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi
chết mới được truy phong Hoàng hậu.
Hoàng hậu Nam Phương cùng Bảo Đại có tất cả 5 người con,
2 trai, 3 gái. Khi đó, công việc hàng ngày của hoàng hậu
Nam Phương là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh
thoảng, bà phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc
trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an
sức khỏe các bà Tiên cung và Hoàng thái hậu Từ Cung, tức
mẹ vua Bảo Đại. Hoàng hậu Nam Phương còn tham gia các
việc xã hội và từ thiện. Hàng năm, bà đều tham dự các buổi
phát giải thưởng cho các học sinh giỏi. Bà chính là người đề
nghị đem môn nữ công gia chánh vào học đường.
Có lẽ lịch sử đã tạo ra bà để có người làm Hoàng hậu cho
Vua Bảo Đại. Và chỉ có bà, với đức tính thông minh và bản
lĩnh, đã tác động tích cực đến vua trong những thời khắc hệ
trọng của đất nước. Tháng 8/1945, bà đã khuyên giải, nài nỉ
vua thoái vị để tránh cảnh máu đổ. Bà đã khuyến khích ông
Phạm Khắc Hòe (Ngự tiền Văn phòng Đổng lý của Vua) liên
lạc với Cách mạng. Đạo dụ cuối cùng của vua Bảo Đại là
Chiếu “Thoái vị” với câu nổi tiếng “Làm người dân một nước
độc lập hơn làm vua một nước nô lệ” là do ông Phạm Khắc
Hòe bàn bạc với bà mà biên soạn.
Ngày 17/9/1945, TP.Huế phát động “Tuần lễ vàng”. Bà là
người đầu tiên đến bên bàn lễ trải khăn đỏ, tháo tất cả nữ
trang trên mình ủng hộ Chính phủ. Theo gương bà, nhiều
người giàu ở Huế đã tham gia “Tuần lễ vàng”, giúp cho số
vàng quyên góp được ở Huế khá cao – 925 lạng.
Khi Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, bà đã gửi thông điệp
đến bạn bè khắp thế giới: “Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ
của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực
dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên
hiện nay, máu của người dân Việt Nam lại tiếp tục chảy
Tôi thiết tha yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh
hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt
chiến tranh”. Bà mất năm 1963 tại Pháp vì bệnh tim.
Bà “đệ nhất phu nhân” giản dị nhất
Từ cổ chí kim, khi nói đến “hoàng hậu”, đến “đệ nhất phu
nhân”, bao giờ người đời cũng nghĩ đến quyền cao chức
trọng, giàu sang nhung lụa, ăn sung mặc sướng, kẻ hầu người
hạ Chỉ ở nước Nam, trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt,
mới có một “đệ nhất phu nhân” giản dị nhất. Đó là cô giáo
Đoàn Thị Giàu ở xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, Tiền
Giang - phu nhân của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. Từ
ngày bà lấy chồng cho đến năm 1954, trong suốt hơn 30 năm,
thời gian bà gần bên chồng chỉ có thể tính bằng số ngày.
Vì công việc cách mạng, lại bị thực dân Pháp truy lùng, nhà
cách mạng Tôn Đức Thắng liên tục thay đổi địa bàn hoạt
động, năm thì mười họa mới gặp vợ con một lần. Rồi ông bị
thực dân Pháp bắt giam đày đi khổ sai ngoài Côn Đảo suốt 16
năm, cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công mới trở
về đất liền. Bà ở nhà vừa đối phó sự khống chế, o ép của
giặc, vừa một mình tần tảo nuôi 3 đứa con (2 gái, 1 trai), có
lúc trôi dạt tận Nam Vang bán hàng rong kiếm sống... Đứa
con trai của bà bị bệnh chết trong cảnh nghèo trong giai đoạn
đó.
Ngôi nhà nơi cô giáo Đoàn Thị Giàu (vợ Chủ tịch Tôn Đức
Thắng) sinh ra.
Năm 1945, nhà cách mạng Tôn Đức Thắng ra tù, chỉ ghé
Tiền Giang thăm vợ con đúng một ngày sau 16 năm ly biệt,
rồi vội vã lên đường công tác. Đầu năm 1946, Bác Tôn lên
đường ra Hà Nội nhận nhiệm vụ theo yêu cầu của Chính phủ
cùng với 2 con, không kịp chia tay vợ.
Ở lại quê nhà, bà vào chiến khu tham gia cuộc kháng chiến
chống Pháp với biết bao gian khổ, hiểm nguy. Ngày con gái
lấy chồng ở chiến khu Việt Bắc, bà không có bên cạnh. Năm
1954, bà tập kết ra Bắc, từ đó bà mới thực sự ở bên chồng
con, lúc tuổi đã già. Là vợ của Chủ tịch nước, nhưng bà vẫn
sống cuộc sống bình dị như nhiều người dân Hà Nội trong
điều kiện khó khăn bởi chiến tranh. Món quà Bác Tôn mang
về từ Liên Xô bà yêu thích nhất là chiếc cối xay tiêu bằng gỗ,
giá 7 rúp.
Với chiếc cối ấy, bà có thể hàng ngày làm món cá kho tiêu
Bác Tôn ưa thích mà không sợ “đâm tiêu văng ra ngoài”. Bà
còn là người chịu thiệt thòi lớn khi không kịp trở về quê
hương trong ngày vui đại thắng bởi bà mất năm 1974.
Vì sao Tiền Giang có nhiều “hoàng hậu”?
Cùng lúc với ở một nửa phía Bắc của đất nước có một người
phụ nữ Tiền Giang làm vợ Chủ tịch nước, ở miền Nam cũng
có “đệ nhất phu nhân” là con gái bên sông Tiền. Đó là bà
Nguyễn Thị Mai Anh - phu nhân Tổng thống VNCH Nguyễn
Văn Thiệu. Bà sinh ra ở Mỹ Tho, lập gia đình với Nguyễn
Văn Thiệu năm 1951. Bà là người phụ nữ xinh đẹp và có học.
Bà là người đứng ra xây Bệnh viện Vì Dân (nay là Bệnh viện
Thống Nhất - TP.HCM). Bà hiện đang sống ẩn dật ở Boston
– Hoa Kỳ.
Cảnh thành phố Mỹ Tho.
Vì sao tỉnh Tiền Giang lại được lịch sử “ưu ái” khi có nhiều
“hoàng hậu” sinh ra ở đây? Ta hãy nghe người trong cuộc là
vua Bảo Đại nói vì sao ông cưới vợ người Tiền Giang: “Các
vị Tiên đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền
Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam
Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân
của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ,
hình như đức Tiên đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia, Đức Thế
Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong
việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm
giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam”.
Như vậy là việc các vị vua triều Nguyễn chọn con gái miền
Nam để tiến cung và làm hoàng hậu là có chủ đích chứ không
phải ngẫu nhiên. Mà một khi chọn con gái miền Nam thì Tiền
Giang có lợi thế hơn cả, vì những lý do sau:
1. Tiền Giang là vùng đất được khai phá sớm nhất Nam bộ.
Các lưu dân miền Trung đã theo dòng sông Tiền đặt chân lên
khai phá vùng đất màu mỡ này từ rất sớm. Đô thị Mỹ Tho
hình thành đã 331 năm, trước Sài Gòn những 18 năm. Rồi
những người “Minh Hương” (phản Thanh, phục Minh) chạy
nạn ra khỏi Trung Hoa, được chúa Nguyễn cho về định cư ở
vùng Mỹ Tho, góp phần làm cho vùng đất này thêm phát
triển. Nhờ đó mà nơi đây sớm xuất hiện giới điền chủ giàu
có, nhiều người cho con học cao, ra làm quan, gắn bó với
triều đình nhà Nguyễn. Vì vậy mà khi cần tìm gái đẹp để
“tiến cung”, con gái Tiền Giang có nhiều cơ hội hơn những
nơi khác.
2. Sông Tiền nước ngọt quanh năm, đất đai hai bên sông rất
màu mỡ, cây lành trái ngọt, vì vậy mà con gái Tiền Giang
“da trắng tóc dài”, nổi tiếng xinh đẹp. Với những gia đình
khá giả, con gái của họ càng có điều kiện để khoe “sắc nước
hương trời”. Các vị vua nhà Nguyễn thường mê sắc đẹp, nên
họ bị con gái Tiền Giang “hớp hồn” cũng là lẽ thường.
3. Khi Pháp xâm lược Việt Nam, Mỹ Tho trở thành “thủ phủ”
của miền Tây Nam bộ khi tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho
được xây dựng. Các hoạt động chính trị, văn hóa, kinh tế ở
đây đều nhộn nhịp. Nhiều nhân sĩ, nhà hoạt động cách mạng
đã dừng chân ở Tiền Giang như Phan Chu Trinh, Nguyễn
Sinh Sắc, Tôn Đức Thắng... Điều đó đã làm cho Tiền Giang
thành nơi nuôi dưỡng, bảo bọc, gắn bó với các nhà cách
mạng. Trong xã hội Sài Gòn trước năm 1975, người Tiền
Giang thành công ở Sài Gòn rất nhiều, từ đó, nhiều cô gái
gốc Tiền Giang đã không khó để tiếp cận và bước lên thành
“mệnh phụ phu nhân”.